Chủ Nhật, 23 tháng 12, 2012

HAI QUYỂN TỪ ĐIỂN RẤT CÓ HẠI CHO TIẾNG VIỆT



  HAI QUYỂN TỪ ĐIỂN RẤT CÓ HẠI CHO TIẾNG VIỆT


                                                              Lê Mạnh Chiến                                                                
              VÀI LỜI CỦA TÁC GIẢ NHÂN VIỆC  ĐĂNG  BÀI  LÊN MẠNG INTERNET
        Bàì này được viết theo lời nhắn nhủ từ một biên tập viên của báo Người Đại biẻu Nhân dân (nay là báo Đại biểu  Nhân dân). Trước đó, tác giả đã viết bài  170 sai lầm trong mọt cuốn từ điển và đã gửi cho tạp chí  Thế Giới Mới để đăng nhiều kỳ, nhưng chỉ  mới đăng được 6 kỳ (từ số 582 ra ngày 26/4/2004 đến số 587 ra ngày 31/5/2004) với 67 ví dụ thì bị dừng lại. Tác giả đã đến Văn phòng đại diện của tạp chí  Thế Giới Mới ở Hà Nội để tìm hiẻu sự tình và được một biên tập viên ở đó cho biết, đại ý  như sau: “Bài này được độc giả hoan nghênh nhiệt liệt vì đã vạch rõ những cái sai nghiêm trọng trong hai cuốn tư điển. Tuy nhiên, dẫu chưa nêu rõ ai là tác giả của quyển  từ điển  có hại kia nhưng nhiều độc giả đã phát hiện ra GS Nguyễn Lân, mà như ông (LMC) đã biết, GS Nguyễn Lân được coi là  một ngôi sao của  ngành giáo dục Việt Nam, còn tạp chí Thế Giới Mới là cơ quan thuộc Bộ Giáo dục, cho nên, nếu “vạch áo cho người xem lưng” một cách kỹ quá thì cũng có phần “bất tiện”.  Nghe vậy, tác giả rất thông cảm và biết ơn tạp chí Thế Giứo Mới .  
           Dường  như  hiểu được khó khăn của tác giả trong việc công bố một bài “rất đáng  được phổ biến rộng rãi” nên vị biên tập viên đáng kính của báo ĐBND đã  nhắn tin qua nhà văn Vương Trí Nhàn và nhắc rằng, do chức năng và khuôn khổ của báo ĐBND, nên chỉ có  thể  đăng được bài ngắn mà thôi. Thế là tác giả phải gói ghém lại trong khoảng 4000 chữ, với 20 ví dụ về những lầm lỗi của GS Nguyễn Lân. Vì phải  đụng chạm với một ngôi sao trong làng từ điển tiếng Việt (được trao tặng Giải thưởng nhà nước năm 2001 về khoa học và công nghệ cho "Cụm công trình về giáo dục học từ điển tiếng Việt") nên tác giả phải ‘dè dặt”, bèn đặt tiêu đề là “Những quyển từ điển có rất nhiều sai lâm”. Trong khi đó, tác giả cũng gửi bài gần giống bài  này (lấy  những ví dụ khác) cho tạp chí  Nghiên cứu và Phát triển  với tiêu đề “Hai quyển từ điển có hại cho tiếng Việt” thì được BBT tạp chí này thêm một chữ “rất’” (trở thành “Hai quyển từ điển rất có  hại cho tiếng Việt”) và đăng ngay.  Tạp chí Văn hóa Nghện An số 56 (tháng 01/2005) cũng đăng bài  này với tiêu đề ấy.  Tác giả rất cảm ơn và  thấy đúng là phải đặt tiêu đề như  thế. Bởi vậy, ở đây, tác giả xin lấy tiêu đè  như tạp chí Nghiên cứu và Phát triển đã sửa chữa giùm.
            Cũng xin nói thêm về “số phận” của  bài này sau khi được đăng trong 2 số báo
Người Đại biểu Nhân dân  (số 67 và 68, ngày 27 và 29 tháng 4 năm 2005).
            Sau khi bài này được đăng trên báo Người Đại biểu Nhân dân  chừng hai tháng, nhân khi tác giả đến tòa soạn để nộp một bài khác (hình  như là bài “Chớ nên bịa đặt cứ liệu lịch sử”  nói về việc bịa đặt cứ liệu lịch sử trong sách Lịch sử Hà Tĩnh, nói rằng sách Đường thư đã ghi chép việc “Mai Thúc Loan từng làm phu gánh quả vải tươi sang kinh đô Trường An, mà tất cả các  nhà sử học hàng đầu, được gọi lả “tứ trụ” của giới sử học đều phạm phải) nên đã hỏi thăm về phản ứng đối với bài “Những quyển từ điển...” Tác giả được biết rằng, tình hình ở đây tuy giống  như ở tạp chí Thế Giới Mới  (bài báo được hoan nghênh) nhưng có hơi khác một chút xíu. Số là, ngay  trong  ngày 27/4/2005, nghĩa là khi bài báo  mới in được một nửa, GS Nguyễn Lân Dũng đã gọi điện thoại đến tòa soạn (vì ông là đại biểu Quốc hội, được phát báo đến  tận tay), cực lực phản đối việc đăng bài  này, với  lý do đại để nói rằng ”GS Nguyễn Lân là  một nhân vật nổi tiếng đã “thành danh”, sao dám làm mất uy tín của ông? Ban biên tập đã trả lời đại ý là: “Vì thấy bài  này viết rất chặt ché, có chứng cứ đầy đủ, rất có  trách nhiêm và rất bổ ích nên chúng tôi đăng. Còn  nếu đòng chí thấy có gì sai thì cứ viết bài  phê phán, chúng tôi sẽ đăng ngay”. Từ đó đến nay đã gần  8 năm trôi qua mà vẫn không thấy  GS Nguyễn Lân Dũng hoặc bất cứ ai vạch được điều gì sai trái của tác giả. Điều đó chứng tỏ rằng, những sai lầm nghiêm trọng của GS Nguyễn Lân mà tác giả Lê Mạnh Chiến đã phê phán là hoàn toàn chính xác, không thể bác bỏ. Sự im lặng của GS Nguyễn Lân Dũng và của những người mê tín GS Nguyễn Lân là bằng chứng hùng hồn nhất để khẳng định điều đó.
           Mặc dầu những người muốn phản đối bài báo này đều đành phải bó tay nhưng tác giả vẫn cảm thấy rất đáng buồn, bởi vì, tuy người ta vẫn luôn mồm nói câu “Giữ gìn sự trong sáng của tiéng Việt” nhưng báo Giáo dục và thời đại thì từ chối, không đăng bài nói về mối hại đối với tiếng Việt, Bộ Giáo dục thì coi như không có vấn đề gì xẩy ra. Đặc biệt, GS Nguyễn Lân Dũng, một đại biểu Quốc hội được tiếng là thẳng thắn, cương trực, vì dân, v.v. thì lại cực lực phản đối bài báo rất cần cho dân, sau đó, liên tục cho tái bản hai quyển từ điển rất có hại cho tiếng Việt mà vẫn không có ai lên tiếng. GS tiêu biẻu, được coi là  chuyên gia hàng đầu về tiếng Việt,  ngôi sao của  ngành giáo dục thì  như vậy, GS  Đại biẻu Quốc hội thì như vậy, Bộ Giáo dục thì như vậy, các trường đại học và cả một đội ngũ giáo sư đông đảo ... tất cả đều thờ ơ với số phận của tiéng Việt như vậy, thử  hỏi, làm sao mà nền giáo dục không “xuống cấp”, văn hóa không lụn bại, đạo đức không suy đồi? Tác giả tuy có quyền tự hào  nhưng vẫn mang trong mình một nỗi đau khôn nguôi.
Bao giờ nền giáo dục nước ta mới hồi sinh?
        Bài  này được viết đã lâu nhưng chưa hiện diện trên  mạng Intternet. Nhưng, nhận thấy  nó còn giữ nguyên ý nghĩa thời sự, tác giả mong được các blogger cho phổ biến tới đông đảo độc giả. Sau đây là bài mà  báo Người Đại biểu  Nhân dân  đã đăng ở số 67 và 68, ngày 27 và 29 tháng 4 năm 2005.
                                                          -------------------------
                                                                                                                                 
         Mùa thu năm 2003, thầy giáo về hưu H.H.Phúc ở Hà Tĩnh có đưa cho chúng  tôi xem một quyển từ điển giải nghĩa các từ Hán-Việt  dày hơn 860 trang, mà theo thầy thì nó rất tồi tệ, rất có hại cho người sử dụng vì nó có quá nhiều sai lầm nghiêm trọng. Thầy đề nghị chúng tôi đọc và phận tích, phê phán những chỗ sai để cảnh báo trước toàn xã hội về tai hại của nó. Chúng tôi liền mở ra xem, lướt qua vài chục tờ ở vần A thì giật mình khi thấy ở từ ác ôn, soạn giả giải thích rằng, ôn nghĩa là bệnh dịch. Thực ra, vốn là ác côn, do sự biến âm chút ít mà thành ra ác ôn. Chữ côn có nghĩa gốc là câí gậy và nghĩa mở rộng là kẻ hư hỏng; nó có mặt trong các từ du côn, côn đồ. Do đó, ác ôn  là kẻ hư hỏng, gây nhiều tội  ác. Lướt qua vài trang, gặp từ anh hùng thì thấy giải thích rằng, hùng nghĩa là loài thú khỏe nhất. Tuy từ điển này không ghi chữ Hán, nhưng qua cách giải thích như vậy thì ta biết rằng, soạn giả nghĩ đến chữ hùng () nghĩa là con gấu. Nhưng, trong từ anh hùng 英雄thì hùng () nghĩa là người có tài trí kiệt xuất. Cách giải thích các từ tố ônhùng như thế chứng tỏ rằng soạn giả không hề biết chữ Hán (mặc dầu có thể đã từng đi học chữ Hán, nhưng « chữ của  thầy đã trả  hết cho thầy » rồi), mà chỉ đem lời đoán mò để giảng giải các từ ngữ Hán-Việt, may ra thì đúng. Lật vội mấy trang nữa, liếc vào  từ đại sứ 大使, một từ rất quen thuộc, ta lại phải kinh ngạc vì ở từ này, chữ đại nghĩa là lớn () thì soạn giả lại giảng rằng đại nghĩa là thay thế ().

      Chỉ với ba ví dụ vừa nêu cũng đủ để kết luận ngay rằng, quyển từ điển này không đáng tin cậy và rất có hại cho người sử dụng nó. Lúc bấy giờ, chúng tôi chưa viét ai là người biên soạn, vì quyển sách bị xé mất mấy trang đầu và vài trang cuối. Thầy  H.H. Phúc bảo tôi : « Rồi ta sẽ biết tên sách và tên tác giả thôi, nhưng trước mắt, ông nên chiu khó đọc và phát hiện thêm nhều sai lầm trong đó để cảnh báo trước công luận về mối nguy hại do nó gây ra ». Tôi đồng ý với thầy vì thấy điều đó là cần thiết, hơn nữa, tôi cũng có chút tò mò, muốn biết soạn giả này liều lĩnh và  vô trách nhiệm đến mức nào. Thế là tôi phải đọc tương đối kỹ hơn, và bước đầu đã phát hiện được khoảng 170 sai lầm trong cuốn từ điển này.
         Tạp chí Thế Giới  Mới từ số 582 đến số 587 (từ ngày 26.4. đến 31.5.2004 ) đã công bố bài 170 sai lầm trong  một cuốn từ điển nhưng độc giả chưa biết  tên cuốn từ điển đó. Bài ấy đã được đang liên tiếp trong 6 kỳ mà chỉ mới nêu được 68 từ phạm sai lầm. Nhưng, như thế cũng đủ  cho thấy  nhiều sai lầm rất đáng sợ mà soạn giả đã phạm phải.
          Sau đó, được một số độc giả mách bảo, chúng tôi đã xác định được rằng, quyển sách chứa hàng đống sai olầm kia chính là Từ điển từ và ngữ Hán Việt của GS Nguyễn Lân (bản mà chúng tôi đã đọc là của Nhà xuất bản Từ điển bách khoa, HN, 2002). Một số độc giả còn cho biết thêm rằng, những sai lầm mà chúng tôi đã nêu đều có mặt đầy đủ trong quyển Từ điển từ và ngữ Việt Nam (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2000), mà người biên soạn cũng chính là GS Nguyễn Lân. Chúng tôi đã đối chiếu hai quyển với nhau thì thấy rằng, Từ điển từ và ngữ Việt Nam (2112 trang) chứa gần như trọn vẹn cả Từ điển từ và ngữ Hán Việt (867 trang), cho nên, những từ bị giảng sai trong Từ điển từ và ngữ Hán Việt thì đều có mặt trong Từ điển từ và ngữ Việt Nam. Ngoài ra, chúng tôi cũng được đọc bài Đọc lướt Từ điển từ và ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân, trong quyển  Những tiếng trống qua cửa các nhà sấm của tác giả Huệ Thiên (do Nhà xuất bản Trẻ phát hành vào quý 3 năm 2004; bài này được in lại từ tạp chí Văn ở TP Hồ Chí Minh , số 6, tháng 9 và số 8, tháng 11 năm 2000), trong đó, tác giả chỉ mới  ‘’đọc lướt’’ các vần A, B, C (chiến 1/5 quyển sách)  mà đã vạch ra được 117 điều  ‘’chưa ổn’’. Những ý kiến phê bình của ông Huệ Thiên rất xác đáng. Tuy nhiên, vì chỉ mới ‘’đọc lươt’’ cho nên trong phần mà ông đã đọc qua vẫn còn những sai lầm nghiêm trọng chưa bị phát hiện. Từ đó, chúng ta biết  rằng, ngoài những sai lầm giống như ở Từ điển từ và ngữ Hán Việt (mà chúng tôi đã tìm thấy hơn 200 trường hợp), Từ điển từ vầ ngữ Việt Nam còn chứa vô số sai lầm khác nữa, rất có hại cho việc học tập và giảng dạy tiếng Việt.
        Như vậy, riêng GS Nguyễn Lân đã biên soạn ra hai  quyển từ điển rất có hại cho tiếng Việt. Điều này làm cho nhiều người đau lòng, nhưng đó là sự thực không thể chối cãi . Với số lương sai lầm nhiều đến mức ấy thì phải in thành sách hoặc đăng nhiều kỳ liên tiếp mới có thể tải hết được. Trong phạm vi một bài viết cho một lần đăng báo, chúng t ôi chỉ có thể nêu vài chục ví dụ về những sai lầm nằm trong cả hai quyển từ điển kể trên để độc giả chứng giám.
1. ẩn lậu
        Theo soạn giả thì ẩngiấu kỹ, lánh đi, ngầm; lậu = rỉ ra ngoài, và ẩn lậu nghĩa là giấu giếm, không thẳng thắn nói ra. Quả thật, trong chữ Hán, chữ lậu này có nghĩa là rỉ ra ngoài. Nhưng như thế thì các từ tố ẩnlậu có vẻ như trái nghĩa với nhau, bởi vậy, giải nghĩa như vậy là không thoả đáng, mà có thể nói là sai. Chữ lậu còn có vài nghĩa khác nữa, mà trong trường hợp này nó có nghĩa là lọt,thoát (lậu võng nghĩa là lọt lưới), cũng là trốn tránh mà thôi. Vậy ta có thể nói rắng, ẩn lậu nghĩa là giấu giếm, là lẩn tránh. Soạn giả định nghĩa rằng, ẩn lậu nghĩa là giấu giếm, không thẳng thắn nói ra là để “khắc phục” điều mâu thuẫn mà ông cũng nhận thấy như chúng tôi chăng, nhưng, không thẳng thắn nói ra nghĩa là nói một cách ấp úng vì sợ sệt, hoặc là ở trong tình thế không thể giấu giếm được nên đánh phải nói ra chứ đâu có phải là ẩn lậu.
2. bàn hoàn   
     Từ bàn hoàn có hai nghĩa: a) quanh quẩn không dứt ra được; b) quấn quýt với nhau. Giải thích như thế cũng tạm được. Về các từ tố, soạn giả cho rằng, bànquanh co, hoànuốn éo. Thực ra, bàn nghĩa là vòng vèo, còn chữ hoàn này có các nghĩa như sau: a) cột gỗ dựng bên cạnh các dịch trạm (tức là trạm chuyển công văn) hoặc các công thự để quy định vị trí đứng đợi. Như vậy, từ bàn hoàn 盤桓 có nghĩa ban đầu là đi lại quanh quẩn cái cột mốc để mong ngóng. Về sau, nó có nghĩa mở rộng là bồi hồi, vương vấn, và quấn quýt.
3. bắc thần 北辰
     Bắc thần nghĩa là Sao bắc cực. Chữ thần này có nhiều nghĩa, trong đó, có nghĩa là thiên thể, là tinh tú, là ngày tháng, là đế vương (khác hẳn với chữ thần nghĩa là kẻ bề tôi hoặc chữ thần trong từ tinh thần 精神). Trong trường hợp này, thần có nghĩa là ngôi sao. Nó còn có âm là thìn để chỉ ngôi thứ 5 trong 12 ngôi địa chi (tí, sửu, dần mão, thìn, tị…) Soạn giả đưa ra một định nghĩa rất dài dòng: bắc thần là ngôi sao sáng hình như đứng yên một chỗ trên bầu trời và giúp ta xác định hướng chính bắc. Ðịnh nghĩa này không sai nhưng quá rườm ra. Ðiều không thể tha thứ được là, ông đã “phán” bừa rằng, “thần” nghĩa là tinh thần. 
  4.. bị cáo 被告
Bị cáo là người bị tố cáo và bị toà án đem ra xét xử. Soạn giả đã hiểu đúng nghĩa của từ này, nhưng thật đáng ngạc nhiên khi thấy ông giải thích rằng, cáo nghĩa là báo cho biết! Nếu đúng như vậy thì từ bị cáo chẳng liên quan gì với việc báo cho biết. Ðành rằng, chữ cáo cũng có nghĩa là báo cho biết, nhưng nó còn có một số nghĩa khác nữa, mà cụ thể ở đây là buộc tội, vạch tội.
 5. bức xạ 輻射   
       Theo soạn giả, bức nghĩa là bắt buộc, xạ nghĩa là bắn; bức xạ là sự phát và truyền năng lượng dưới dạng sóng và dạng hạt. Có thể chấp nhận định nghĩa này về bức xạ. Nhưng  soạn giả đã phạm sai lầm nghiêm trọng khi ông đoán liều rằng, bức nghĩa là bắt buộc. Chữ "bức" ở đây (khác hẳn chữ bức bắt buộc) có nghĩa gốc là nan hoa ở bánh xe, và có nghĩa mở rộng là toả ra khắp mọi phía xung quanh.
6. cử tọa 擧座
  Về từ tố cử, soạn giả nêu ra các nghĩa: cất lên, đưa lên, nổi dậy, thi đỗ ; còn tọa thì có nghĩa là ngồi. Thực ra, chữ tọa ở đây có nghĩa là chỗ ngồi  (khác với chữ tọa nghĩa là ngồi). Về chữ cử, ngoài vài nghĩa mà soạn giả đã nêu, còn có nhiều nghĩa khác, trong đó có nghĩa là tất cả., và đó chính là nghĩa của nó trong từ cử tọa. Vì thế, cử tọa nghĩa là tất cả những người ngồi dự một cuộc họp
  7. dạ hợp  夜合
Theo lời soạn giả thì dạ = ban đêm; hợp = thích hợp; và, dạ hợp là một loài cây cùng họ với ngọc lan, hoa trắng rất thơm, nở về ban đêm. Cách cắt nghĩa từ tố hợp như trên đã khiến ông tin rằng, dạ hợp nghĩa là thích hợp với ban đêm nên loài hoa này ắt phải nở về đêm! Ðó là một điều sai nghiêm trọng. Ðúng là chữ hợp có một nghĩa là thích hợp, là phù hợp, nhưng nó còn có nhiều nghĩa khác nữa. Trước hết, nghĩa ban đầu của nó là khép lại, mà đó cũng chính là nghĩa cụ thể trong từ dạ hợp 夜合. Từ điển Từ nguyên nói về cây dạ hợp như sau: mộc bản, diệp trường, hoa thanh bạch sắc, hiểu khai dạ hợp, cố danh. Nghĩa là: thân gỗ, lá dài, hoa màu trắng xanh, trời sáng thì nở, ban đêm thì cụp lại, do đó mà có tên ấy. Như vậy, vào ban đêm, hoa dạ hợp không thể nở được, dẫu đã nở rồi cũng phải cụp lại.
   
  8. Ðịa Trung Hải  地中海     
     Ðịađất, là lục địa; trungở trong, ở giữa; hảibiển. Ðịa Trung Hảibiển ở trong lục địa. Tuy nhiên, từ này đã trở thành tên riêng để chỉ một biển cụ thể, có diện tích 25 triệu km2, nằm ở phía nam Châu Âu, phía bắc Châu Phi, phía tây Châu Á, thông với Ðại Tây Dương qua eo biển Gibraltar và thông với Biển Ðỏ qua kênh đào Suez. Ðiều đáng ngạc nhiên là, sau khi giải thích rằng, Ðịa Trung Hải là biển ở giữa lục địa, soạn giả đưa ra một câu ví dụ: Biển Caxpiên của Liên xô là một địa trung hải. Như vậy, ông đã không định nghĩa được từ Ðịa Trung Hải, lại còn dùng từ này như một danh từ chung, với nghĩa là cái hồ lớn. Hơn nữa, biển Caxpiên còn có 43 200 kmthuộc chủ quyền của Iran chứ không hoàn toàn thuộc Liên xô trước đây.
   9. đồng lõa同伙
        Có lẽ ai cũng biết rằng, từ đồng lõa có hai nghĩa: 1) người trong cùng một nhóm để làm một việc bất chính (danh từ), và 2) cùng tham gia một nhóm làm việc bất chính (động từ). Soạn giả dạy rằng, lõacái bọc. Thực ra, lõa là âm đọc chệch từ chữ hỏa nghĩa là lửa, là bếp. Theo binh chế thời xưa, mười người lính thì cùng nấu một bếp, tạo thành một hỏa, như một tiểu đội vậy. Đồng hỏa  同伙 (chữ  hỏa ở đây thường được viết là để chỉ người) nghĩa là người trong cùng một bếp ăn, mở rộng ra là bọn người cùng một nhóm «làm ăn với nhau » (thường là bất chính.) 
  10. giám quốc 監國      
   Soạn giả cho biết: giám nghĩa là trông coi, quốcnước. Đúng. Nhưng ông định nghĩa rằng, giám quốcngười đứng đầu một nước cộng hoà tư sản thì sai to. Càng sai nữa khi ông viết rằng, Ngày nay người ta dùng từ “tổng thống” để thay từ “giám quốc”. Thực ra, giám quốcngười cầm quyền tạm thời khi vua vắng mặt hoặc khi vua còn nhỏ. Ví dụ, năm 1908, Phổ Nghi lên ngôi khi mới hai tuổi, đình thần nhà Thanh đã cử cha của ông ta là Tải Thuần làm giám quốc. Cuối năm 1787, tướng của Nguyễn Huệ là Vũ Văn Nhậm  ra Bắc giết Nguyễn Hữu chỉnh rồi lập Sùng Nhượng Công  Lê Duy Cận (chú của Lê Chiêu Thống ) làm giám quốc vì Lê Chiêu Thống đã chạy khỏi kinh thành để cầu cứu quân Thanh. Khi Nguyễn Huệ ra Bắc giết Vũ Văn Nhậm, ông vẫn để Lê Duy Cận làm  giám quốc.
      
   11. kinh lạc經絡    
Soạn giả cho biết rằng, chữ kinh có các nghĩa: sửa trị, đường dọc, sách vở, từng trải, thường. (Chúng ta hiểu rằng, trong từ kinh lạc, thì kinh  có nghĩa là đường dọc). Còn chữ lạc thì ông cho rằng, đó  là dây thần kinh, và, kinh lạc là hệ thống dây thần kinh nối liền các huyệt. Nhưng, theo từ điển Từ hải thì kinh lạc là mạng lưới các đường vận chuyển khí huyết (theo quan niện của Đông y, gần có nghĩa như năng lượng) trong cơ thể. Kinh là những đường chính chạy theo chiều dọc của cơ thể; lạc là những đường nối ngang giữa các đường dọc ấy ; các huyệt châm cứu đều nằm trên mạng lưới kinh lạc. Hệ kinh lạc khác hẳn hệ thần kinh, và các đường kinh lạc không trùng với các dây thần kinh.    
12. linh sàng 靈床
      Linhthiêng liêng, là liên quan đến người chết; sàngcái giường. Các từ tố này đã được soạn giả giải nghĩa đúng. Nhưng ông cho rằng, linh sàng là giường thờ người mới chết chưa đem chôn.  Nếu như vậy thì phải chăng Nguyễn du đã dùng sai từ này ở hai câu thơ trong Truyện Kiều :
                       Sang nhà cha, tới trung đường,/ Linh sàng bài vị thờ nàng ở trên.
     Thật ra, từ linh sàng có  hai nghĩa: 1) giường đặt thi thể người chết khi đám tang ; 2) cái bàn nhỏ đặt trước bàn thờ, làm ‘’chỗ nghỉ ‘’ cho linh hồn người chết khi chưa hết tang. Đó chính là cái «giường thờ», rồi từ đó, dân ta cũng  gọi cái bàn  thờ là «giường thờ» khiến nhiều người, kể cả những người biên soạn từ điển tiếng Việt đã định nghĩa : «giường thờ»  là bàn thờ tổ tiên, cao và rộng ! (Hoàng Phê). Trong hai câu thơ trên đây, linh sàng mang nghĩa thứ hai.
13.   lộng hành 弄行, lộng quyền 弄權    
    Lộng hành nghĩa là hành động một cách coi thường mọi người. Lộng quyền nghĩa là đem quyền hành ra làm trò đùa, muốn làm gì thì làm, chẳng kể gì đến phép tắc luật lệ. Chữ lộng có một số nghĩa thông thường là: chơi đùa; đem sự vật khác hoặc sự việc khác ra làm trò đùa; khinh nhờn, coi thường. Với nghĩa như thế, người ta còn có từ lộng nguyệt, nghĩa là chơi đùa với trăng, tức là vui chơi dưới ánh trăng, lộng ngôn là nói năng bừa bãi, thích nói gì thì cứ nói, và lộng bút nghĩa là viết lách vô trách nhiệm, không biết cũng viết bừa, coi thường mọi người. Tiếc thay, soạn giả chỉ nắm được nghĩa sơ sài của các từ lộng hànhlộng quyền rồi suy ra rằng, “lộng” nghĩa là lấn át. Chưa kể đến hàng trăm trường hợp giảng giải liều lĩnh khác, chỉ riêng trường hợp này cũng đã đủ cho phép mọi người coi ông là một kẻ lộng bút.
  14. lưu chiểu 留照
   
      Soạn giả giảng rằng, lưu = giữ lại; chiểu = văn bản; và, lưu chiểutác phẩm văn nghệ nộp cho cơ quan lưu trữ của nhà nước để làm tài sản chung. Nhưng, chẳng có chữ "chiểu' nào có nghĩa là văn bản cả. Hơn nữa, chúng ta biết rằng, chữ “chiểu” ở đây chính là biến âm của chữ chiếu , tức là đối chiếu,  là so sánh để phát hiện thật hay giả hoặc đúng hay sai. Lưu chiểu là giữ lại bản mẫu của văn bản đã lưu hành để so sánh, kiểm tra  khi cần thiết. Mục đích chính của việc lưu chiểu là như thế chứ không phải để làm tài sản chung. Soạn giả đã không hiểu chữ chiểu và cũng không hiểu gì về từ lưu chiểu.
14.   lỵ sở治所   
    Lỵ sở là trung tâm hành chính của một địa phương. Nhưng thật là sai lầm khi soạn giả đoán rằng “lỵ” là đến nơi. (Chữ này có mặt trong từ lỵ nhậm 蒞任, nghĩa là đến nơi nhậm chức). Ông không biết r ằng,  lỵ sở vốn là trị sở治所  nhưng bị đọc chệch đi và đã trở thành thói quen. "Lỵ" ở đây chính là "trị" , nghĩa là cai quản, điều hành công việc, và cũng dùng để gọi tắt từ trị sở .
15.   thôi thúc 催促   
Từ này tưởng là quá đơn giản, thế mà soạn giả đã giảng sai.Theo ông, thôi nghĩa là thúc giục, và, thúc nghĩa là buộc. Thực ra, chữ thúc này có nghĩa là giục giã,đòi phải tăng tốc, như trong từ đốc thúc, khác với chữ “thúc nghĩa là buộc. Chữ thúc trong từ thôi thúc cũng có âm là xúc, và có mặt trong từ xúc tiến.
16.   thế nghiệp 世業    
     Soạn giả đã giảng rằng, thế nghĩa là quyền lực hoặc trạng thái (có dạng chữ Hán là ), nghiệp nghĩa là nghề, và, thế nghiệp là chức vụ do cha ông để lại trong thời phong kiến. Thực ra   thế nghĩa là đời, nghiêp sự nghiệp hoặc sản nghiệp. Thế nghiệp 世業sự nghiệp hoặc tài sản do đời trước để lại. Các bộ từ điển đáng tin cậy đều định nghĩa như thế.  
  
     18. trữ tình  抒情   
     Vì  không biết “mặt chữ” mà chỉ phỏng đoán theo cảm tính nên soạn giả  đã giảng giải rằng, trữchứa chất, tìnhtình cảm; trữ tìnhchứa chất tình cảm. Thật là sai lầm nghiêm trọng. Nên nhớ rằng, ở đây, trữ nghĩa là biểu đạt, là bày tỏ. Trữ tình nghĩa là bày  tỏ  tình cảm. Cần phân biệt chữ "trữ" này với chữ  trữ trong từ tích trữ.    
       19. vi điện tử      
     Vi điện tử là hạt điện tử rất nhỏ, đó là cách giải thích của soạn giả, khiến người đọc buồn cười. Điện tử, tức electron, là một loại hạt cơ bản bền vững, là hạt tích điện âm trong mọi vật chất thông thường, có khối lượng bằng khoảng 9,11 x 10-28 gram và điện tích khoảng -1,602 x 10-19 coulomb. Như vậy, điện tử có khối lượng và điện tích rất cụ thể, làm gì có thứ điện tử rất nhỏ khác nữa?      
   Từ vi điện tử vốn được dịch từ tính từ microelectronic(al) trong tiếng Anh (hoặc micro-electronique trong tiếng Pháp), nó chỉ có thể đóng vai trò tính từ, như trong các cụm từ như mạch vi điện tử, thiết bị vi điện tử, v.v. để chỉ mạch điện tử hoặc thiết bị điện tử có kích thước cực kỳ nhỏ bé..
     20.   viễn phố  遠浦
    
      Soạn giả giải thích rằng, viễn = xa; phố = chỗ bán hàng, nhà trạm; và viễn phố = nơi ở xa. Rồi ông trích dẫn câu thơ Gác mái, ngư ông về viễn phố… của Bà huyện Thanh Quan. Ông không hiểu rằng, ở đây, phố nghĩa là cửa biển chứ không phải phố là cửa hàng. Viễn phố 遠浦 nghĩa là cửa biển ở xa. Bà huyện Thanh Quan ở thế giới bên kia hẳn phải nổi giận  và vô cùng đau lòng cho đất nước nếu bà biết rằng, có một nhà biên soạn từ điển tiếng Việt ở cuối thế kỷ XX đã giảng giải thơ của bà như thế.
           
                                                                &&&&&&&
      Vài chục thí dụ trên đây chỉ là một phần mười của những sai lầm mà chúng tôi đã phát hiện được trong Từ điển từ và ngữ Hán – Việt, mà cũng nằm cả trong Từ điển t ừ và ngữ Việt Nam.của GS Nguyễn Lân. Đương nhiên, vì Từ điển từ và ngữ Việt Nam chứa trọn nội dung của Từ điển từ và ngữ Hán Việt và còn thêm rất nhiều từ ngữ khác ít liên quan đến Hán ngữ nên nó còn phạm vô số sai lầm khác mà tác giả Huệ Thiên đã cho thấy một phần qua bài Đọc lướt Từ điển từ và ngữ Việt nam của Nguyễn Lân.
        Qua những thí dụ  này, chúng ta thấy soạn giả Nguyễn Lân luôn luôn sẵn sàng  ‘’sáng tác’’ nghĩa cho các từ tố; hơn nữa, ông lại rất thiếu kiến thức về văn hóa, lịch sử và  khoa học. Nếu trong đời một giáo viên đứng trên bục giảng mà một hai lấn  phạm vài sai lầm như những trường hợp kể trên thì cũng trở thành trò cười và mang tiếng cả đời rồi. Huống chi, từ điển là sách cung cấp những hiểu biết chính xác về từ ngữ, ở đây là từ ngữ tiếng Việt, mà phạm đến vài trăm sai lầm lớn như thế, sao có thể chấp nhận được ?
       Một thực tế rất đáng buồn là, Từ  điển từ và ngữ Hán Việt chứa  nhiều sai lầm nghiêm trọng như vậy nhưng sau lần xuất bản đầu tiên năm 1989 (Nhà xuất bản TP Hồ Chí Minh), nó đã được tái bản nhiều lần. Vì thế nên  đến năm  2000, GS Nguyễn Lân lại cho ra đời quyển Từ điển từ và ngữ Việt Nam lớn hơn và càng nhiều sai lầm hơn. Đặc biệt, Từ điển từ và ngữ Hán-Việt thì được GS Lê Trí Viễn coi là cuốn từ điển Hán-Việt tốt nhất từ trước đến nay, và ‘’ nó sẽ là công cụ tra cứu không thể thiếu được đối với bất kỳ ai, trước hết là học sinh, sinh viên, các thầy cô giáo, các nhà biên soạn, khi muốn nắm được nghĩa chính xác của từ  và ngữ Hán Việt trong tiếng Việt hiện nay.  Còn về giá trị của Từ điển từ và ngữ Việt Nam thì GS Vũ Khiêu cho rằng  ‘’trí tuệ và tâm huyết của tác giả đã tạo ra một tác phẩm rất có giá trị mà cả xã hội đang mong đợi (theo Lời giới thiệu).
     
         Khỏi phải bàn về tính khả tín của hai vị giáo sư này.

1 nhận xét:

  1. Bài viết có GIÁ TRỊ RẤT CAO!

    Tôi không biết tán thán thế nào, nên đành để tiêu đề như trên. Xin lưu để đọc lại như tài liệu quý.
    Bàn về các vị mang hàm “Giáo sư”, “Tiến sỹ”, ... ở ta, nhiều khi nói thực không phải là ném đá, mà là trăn trở và chia sẻ. Năm 2010 tôi nhận xét về một “Giáo sư” và được một vị khả kính chia sẻ chân tình; Tôi quý nhận xét đó lắm, mà không hề “tự ái” vì mình thuộc thế hệ “dưới mái trường XHCN”. Xin post lại một phần như để tri ân (sự tri âm) và tán thán công sức cũng như tâm huyết của Tác giả Lê Mạnh Chiến.
    Trân trọng.

    Trích dẫn:
    ... Tôi đã thường xuyên theo dõi ý kiến của “hơi bị nhiều” những “Giáo Sư”, “Phó Giáo Sư”, “Tiến Sĩ” trên nhiều bộ môn và tôi thấy “hơi bị nhiều” những vị “Sĩ” và “Sư” của nhà nước Xã hội chủ nghĩa Việt Nam chẳng có kiến thức gì cả. Đại đa số đều là sản phẩm của một nền giáo dục èo uột và rồi ở lâu lên lão làng, nhiều tuổi đảng được “tặng” bằng cấp và tước hiệu thôi. Đã có lúc tôi copy từ các bài báo trong nước về những phát biểu cho thấy trình độ yếu kém của những vị Sư và Sĩ Xã hội chủ Nghĩa để làm tài liệu cho một bài phân tích về sự yếu kém của trình độ văn hoá và giáo dục của Việt Nam sau khi nước nhà thống nhất. Nhưng rồi tôi phải bỏ ngang ý định này vì “quá sức nhiều” những bằng chứng về sự thiếu trình độ của những vị như vậy. Bởi thế GS T.L. hay còn nhiều vị GS khác nữa có phát biểu chăng thì ngôn từ kêu rất to nhưng nội dung thì rỗng tuếch cũng là điều thông thường. Các vị đó KHÔNG BIẾT THỰC SỰ CHỨ KHÔNG PHẢI BIẾT MÀ NGỤY BIỆN HAY CHE DẤU ĐIỀU CHI ĐÂU. KHÔNG NÊN ĐÁNH GIÁ CÁC VỊ ĐÓ CAO QUÁ ông ... ạ!
    14/02/2010
    Ng. T. T.

    Hết trích.
     (Theo phamvietdao.blogspot.com)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét