THỌ
|
壽
|
福
|
PHÚC
|
THÁNH
|
聖
|
民
|
DÂN
|
NĂNG
|
能
|
可
|
KHẢ
|
HÔ
|
乎
|
拜
|
BÁI
|
VẠN
|
萬
|
三
|
TAM
|
TUẾ
|
歲
|
公
|
CÔNG
|
THANH
|
聲
|
爵
|
TƯỚC
|
Dịch nghĩa
Tước đến
tam công ban phúc cho dân lành
Chúc thánh
thọ hô vang câu vạn tuế.
CÂU ĐỐI TIỀN ĐẠI BÁI
THIÊN
|
千
|
五
|
NGŨ
|
THU
|
秋
|
色
|
SẮC
|
ÂN
|
恩
|
祥
|
TƯỜNG
|
VỤ
|
霧
|
雲
|
VÂN
|
PHÚC
|
覆
|
緣
|
DUYÊN
|
DÂN
|
民
|
聖
|
THÁNH
|
LINH
|
靈
|
殿
|
ĐIỆN
|
Dịch nghĩa
Mây lành năm sắc viền điện thánh
Mưa móc
ngàn năm chở che dân
HIỂN
|
顯
|
英
|
ANH
|
HÁCH
|
赫
|
靈
|
LINH
|
TỨ
|
四
|
千
|
THIÊN
|
THỜI
|
時
|
古
|
CỔ
|
TÂN
|
新
|
在
|
TẠI
|
Dịch nghĩa
Nghìn năm anh linh còn đó
Bốn mùa rực
rỡ như mới.
LẠC
|
樂
|
高
|
CAO
|
QUAN
|
觀
|
見
|
KIẾN
|
LỘC
|
祿
|
福
|
PHÚC
|
DIỆU
|
曜
|
星
|
TINH
|
CHIẾU
|
炤
|
朝
|
TRIÊU
|
TRƯỜNG
|
長
|
永
|
VĨNH
|
MINH
|
明
|
燦
|
XÁN
|
Dịch nghĩa
Ngước trông
Phúc tinh từ cao chiếu xuống rạng vẻ tươi sáng mãi
Vui vẻ xem
sao Lộc Diệu rực rỡ chiếu sáng lâu dài.
CỐ
|
故
|
有
|
HỮU
|
LÊ
|
黎
|
漠
|
MẠC
|
QUỐC
|
國
|
官
|
QUAN
|
TẾ
|
祭
|
儀
|
NGHI
|
THƯỢNG
|
尚
|
曾
|
TĂNG
|
HINH
|
馨
|
深
|
THÂM
|
HƯƠNG
|
香
|
洌
|
LIỆT
|
Dịch nghĩa
Công tích
to lớn càng tăng thêm vẻ lẫm liệt
Được nhà Lê
tế theo lễ quốc gia hương thơm còn mãi
Câu đối ở hai bên cột trụ Bình phong
TRÌ
|
池
|
庭
|
ĐÌNH
|
DƯỠNG
|
養
|
栽
|
TÀI
|
HÓA
|
化
|
棲
|
THÊ
|
LONG
|
龍
|
鳳
|
PHƯỢNG
|
NGƯ
|
魚
|
竹
|
TRÚC
|
Dịch nghĩa
Trước sân trồng trúc chim phượng đậu
Trong ao nuôi cá bỗng hóa rồng
CÂU
ĐỐI NGHI MÔN ( Cột trụ bên trong)
THIÊN
|
千
|
巍
|
NGUY
|
VẠN
|
萬
|
峨
|
NGA
|
NIÊN
|
年
|
地
|
ĐỊA
|
DƯ
|
餘
|
上
|
THƯỢNG
|
THỬ
|
此
|
今
|
KIM
|
NHẤT
|
一
|
伊
|
Y
|
TÂN
|
新
|
始
|
THỦY
|
Dịch nghĩa
Sừng sững trên mặt đất dáng vẻ như ban đầu
Hơn nghìn vạn
năm vẫn còn như mới.
Đôi câu đối ở cổng con, bên trong
phía hạ
HOÀNG
|
皇
|
皋
|
CAO
|
LỘ
|
路
|
門
|
MÔN
|
THANH
|
清
|
俊
|
TUẤN
|
DI
|
夷
|
立
|
LÂP
|
KHẢ
|
可
|
容
|
DUNG
|
BẮC
|
北
|
軒
|
HIÊN
|
NAM
|
南
|
驷
|
TỨ
|
Dịch nghĩa
Cửa cao sừng sững có thể chứa được cả xe cả ngựa
Đường cái
quan bằng phẳng đi bắc đi nam đều thuận.
Câu đối ở cổng con, bên trong, thượng
TẢ
|
左
|
日
|
NHẬT
|
HỮU
|
右
|
月
|
NGUYỆT
|
VÃNG
|
往
|
昭
|
CHIÊU
|
DU
|
攸
|
無
|
VÔ
|
LỢI
|
利
|
私
|
TƯ
|
Dịch nghĩa
Mặt trời mặt
trăng soi rọi không giới hạn
Hai bên phải trái đều có lợi.
Câu đối ở cổng
con bên ngoài, thượng
CÀN
|
乾
|
革
|
CÁCH
|
KHAI
|
開
|
故
|
CỐ
|
KHÔN
|
坤
|
鼎
|
ĐỈNH
|
ĐỒ
|
圖
|
新
|
TÂN
|
HỢP
|
合
|
增
|
TĂNG
|
ĐỒNG
|
同
|
大
|
ĐẠI
|
NHÂN
|
人
|
壯
|
TRÁNG
|
Dịch nghĩa
Thay cũ đổi mới tăng vẻ hào tráng
Trời
đất khép mở hợp cùng mọi người
Chú thích: Đại tráng và Đồng nhân là tên hai quẻ trong Kinh Dịch, ý nói công việc
tốt lành mọi người hòa thuận
Câu đối ở cột trụ giữa nghi môn, mặt
đối diện nhau
LƯƠNG
|
涼
|
巍
|
NGUY
|
LƯƠNG
|
涼
|
巍
|
NGUY
|
NHIÊN
|
然
|
乎
|
HỒ
|
KHẢ
|
可
|
其
|
KÌ
|
ĐƯƠNG
|
當
|
有
|
HỮU
|
ĐẠI
|
大
|
成
|
THÀNH
|
TRƯỜNG
|
長
|
屹
|
NGẬT
|
TÍ
|
比
|
如
|
NHƯ
|
GIANG
|
江
|
山
|
SƠN
|
NAM
|
南
|
嶽
|
NHẠC
|
Dịch nghĩa
Mênh mang việc đã hoàn thành vòi vọi cao như Sơn Nhạc
Bao la thay
giữa trời có thể sánh với đất Giang Nam.
Câu đối ở cột trụ bên ngoài
THAM
|
參
|
特
|
ĐẶC
|
THIÊN
|
天
|
地
|
ĐỊA
|
ĐỂ
|
砥
|
方
|
PHƯƠNG
|
TRỤ
|
柱
|
塘
|
ĐƯỜNG
|
BẤT
|
不
|
晋
|
TẤN
|
PHONG
|
風
|
月
|
NGUYỆT
|
HOÀNG
|
楻
|
炤
|
CHIẾU
|
Dịch nghĩa
Chiếc đầm vuông ở đất quý để cho bóng trăng soi chiếu
Cột trụ cao
chọc trời thả sức cho gió thổi mạnh.
Câu đối ở cổng con ngoài
ĐẠO
|
道
|
池
|
TRÌ
|
BÀNG
|
傍
|
上
|
THƯỢNG
|
THỨC
|
式
|
爭
|
TRANH
|
VỌNG
|
望
|
春
|
XUÂN
|
THỤ
|
樹
|
魚
|
NGƯ
|
LIÊN
|
連
|
跃
|
DƯƠC
|
CHU
|
株
|
水
|
THỦY
|
Dịch nghĩa
Mặt đầm khoe sắc xuân cá mừng vui giỡn nước
Bên đường đi
nhìn thấy cây nối tiếp cây.
CÂU ĐỐI BÊN NGOÀI TAM MÔN
NGA
|
峨
|
龍
|
LONG
|
MY
|
楣
|
邊
|
BIÊN
|
TRẠI
|
寨
|
城
|
THÀNH
|
NAM
|
南
|
北
|
BẮC
|
DƯ
|
餘
|
秀
|
TÚ
|
LINH
|
靈
|
氣
|
KHÍ
|
CÁCH
|
格
|
列
|
LIỆT
|
GIÁM
|
鋻
|
鍾
|
CHUNG
|
ĐÌNH
|
庭
|
天
|
THIÊN
|
HOA
|
花
|
柱
|
TRỤ
|
DÃ
|
野
|
地
|
ĐỊA
|
THẢO
|
草
|
維
|
DUY
|
HƯỚNG
|
向
|
標
|
TIÊU
|
XUÂN
|
春
|
卓
|
TRÁC
|
VINH
|
榮
|
立
|
LẬP
|
Dịch nghĩa
Khí thiêng thành Thăng Long phía Bắc chung đúc nên cột trời trên
mặt đất cao sừng sững
Dư linh trại Nga My vùng Nam
ấp ủ cho hoa trong sân cỏ ngoài đồng tươi tốt mùa xuân.
CÂU ĐỐI Ở CỘT TRỤ GIỮA NGHI MÔN
VƯƠNG
|
王
|
大
|
ĐẠI
|
ĐẠO
|
道
|
塊
|
KHỐI
|
VÔ
|
無
|
假
|
GIẢ
|
THIÊN
|
偏
|
文
|
VĂN
|
ĐẢNG
|
党
|
章
|
CHƯƠNG
|
BÌNH
|
平
|
色
|
SẮC
|
BÌNH
|
平
|
色
|
SẮC
|
ĐÃNG
|
蕩
|
形
|
HÌNH
|
ĐÃNG
|
蕩
|
形
|
HÌNH
|
LƯỠNG
|
两
|
一
|
NHẤT
|
NGHI
|
儀
|
點
|
ĐIỂM
|
SINH
|
生
|
丹
|
ĐAN
|
HÓA
|
化
|
青
|
THANH
|
DỮ
|
與
|
渾
|
HỒN
|
TƯƠNG
|
相
|
莫
|
MẠC
|
THAM
|
參
|
壯
|
TRÁNG
|
Dịch nghĩa
Quả đất muốn
làm văn chương, sắc sắc hình hình một chấm đỏ xanh đều tăng vẻ tráng lệ
Vương đạo chẳng
thiên lệch, bằng bằng phẳng phẳng đôi vầng sinh hóa cùng góp công tạo dựng nên.
Phần năm
NHỮNG
VẦN THƠ
1/ Cụ Chu Văn Túc
Cụ Chu Văn Túc, người xóm Lan Đình Thượng,
nay thuộc xóm Trung Lan, sống vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, làm chức Thơ lại
huyện Xuân Trường tỉnh Nam Định, khôn rõ năm sinh, năm mất. Trong nhiều bài thơ
nói về mối tình anh em kết nghĩa giữa làng Vạn Phước và làng Nga My thì ba bài
của cụ Chu Văn Túc có giá trị về thời gian và được nhiều người truyền đọc. Các
bài thơ của cu Chu Văn Túc sau đây là do cụ Hà Đắc Thụy và cụ Nguyễn Huy Hiên
sưu tầm qua trí nhớ của các cụ cao tuổi trong làng, không rõ năm sáng tác, chỉ
dựa vào tình tiết trong bài thơ mà phỏng
đoán bài “ Đường ra Vạn Phước quê anh” được tác giả viết vào năm 1928.
Vạn -
Nga kết nghĩa
Nam Mô đức Phật từ bi
Độ dân Vạn Phước – Nga My du đồng
Nghìn năm huynh đệ một lòng
Ví như cành quế, cành hồng tốt tươi
Ngày xuân nhớ cảnh, nhớ người
Nhớ câu ước cũ, nhớ lời giao xưa
Từ ngày Nhà Lý vua ta
Thanh Trì đê vỡ mười ba năm liền
Trên sai sứ giả phán truyền
Cầu trời, lễ Phật lại phiền đại huynh
Quả nhiên đê chính tạo thành
Hiện điềm nhũ sắc, cá xanh, đỏ, vàng
Thần giao sự đã rõ ràng
Vườn đào kết nghĩa hai làng Vạn – Nga
Kìa Hát Thủy, nọ Nhị Hà
Sông bao nhiêu nước, nghĩa là bấy nhiêu
Nghìn thu một mực kính yêu
Đông Nam có một, đông triều không hai
Trước mừng quan cụ hiền tài
Sau mừng chư hậu sống vui thọ trường
Đời đời tình nghĩa thân thương
Anh em văn võ, mọi đường giỏi dang
Chị thì buôn bán đảm đang
Em thì canh cửi khôn ngoan đủ điều
Đến đâu quan quý, dân yêu
Tối trưa yến tiệc, sáng chiều dạo chơi
Hoa thơm bay ngát ngoài trời
Vạn - Nga giao hảo đời đời đệ huynh.
Bài ca
Nga My – Vạn Phước
Trước lạy chư vị đức tối linh
Sau mừng đôi dân đồng thượng hạ
Bách niên hảo hội nhất đán trùng tân
Trên ân mang mưa móc chín lần
Dưới nhờ bóng tôn thần liệt vị
Vui tám cõi, mưa hòa, gió thụy
Mừng bốn phương, già trẻ khỏe vui
Bốn mươi ba năm mới có một thời
Đàn vang cung Bắc, rượu mời nước non.
Nhớ nghĩa cũ hai làng đính ước
Thanh Trì kia năm trước vỡ đê
Mười ba năm dân sự khát khê
Công trình kể đắp đi, đắp lại
Việc đê chính lạ sao là lạ
Bất nhật thành, đê đã hoàn long
Ai ai đều vui vẻ thong dong
Nhờ Thần Lộc dân công mà biết mấy
Cá ngũ sắc nổi bên sông đầy dẫy
Thấy hiền lành trông thấy lạ lùng sao
Hay là Thần dữ, Thần giao
Nên hai dân vườn đào mà kết nghĩa
Từ khi ấy nặng tình giao khế
Đại tang, cầu, rước, tế, hội đồng
Trên thờ ngũ vị đức lanh thông
Dưới thù tạc một lòng hoan hỉ
Đường xa cách quan hà bách lý
Tình nghĩa này huynh đệ nhất gia
Hát Giang sánh với Nhị Hà
Anh là Vạn Phước, em là Nga My
Thanh Oai cùng với Thanh Trì đồng thanh
Một vùng nước biếc non xanh
Chữ ân càng nặng, chữ tình càng sâu
Mùi chi lan thơm nức hoàn cầu
Tiếng đồn dậy khắp qua Âu sang Á
Kính trọng quá, lại yêu mến quá
Cõi trần Nam ắt dễ có hai
Khi vui một chén quan hà
Chúc anh về trăm dặm đường xa
Lòng em thương nhớ, em ra
trông trời
Chúc cho thiên hạ tài bồi
Độ cho dân được ngàn đời hơn
nay
Ngàn thu gió mát khôn lay
Đường
ra Vạn Phước quê anh
Bước chân ra khỏi Cầu Nang
Ba Hàng, Cầu Nẩy, rồi sang Bình Đà
Chợ Tư lối cũ đây mà
Bao nhiêu cá, thịt, lợn, gà, rau tươi
Phố phường buôn bán đông người
Ô tô chạy ngược, chạy xuôi đường liền
Rẽ sang Tây Quả, Sinh Liên
Bên làng Đại Định gần miền Đổng Tu
Cây cao gò đống lù lù
Bảo nhau Quán Quạ, Bù Rù còn xa
Từ thôn Phượng Lịch trở ra
Thiên Đông muốn đến phải qua cửa đình
Lại qua sông nhỏ nước xanh
Sang đò rồi phải đi quanh cánh đồng
Hết làng Đan Nhiễm vừa xong
Có sáu quán lợp ngói hồng xinh thay
Tiếp theo Hạ Thái thôn đây
Rủ nhau vào quán, gốc cây tạm ngồi
Ăn trầu, uống nước nghỉ ngơi
Đôi chân bớt mỏi, thảnh thơi lên đường
Rồi đi đến xã Xuân Trường
Trầu không trồng cả bên đường cái đi
Thăm miền Nam Tử một khi
Rồi qua cửa huyện Thanh Trì Vui sao
Xăm xăm rẽ lối bước vào
Đống Tu, Chợ Nhát, thuốc lào ngon thay
Trèo lên ngắm cảnh trời mây
Thanh Trì đê ấy nhớ ngày năm xưa
Trải bao năm tháng nắng mưa
Tình anh, nghĩa chị vẫn chưa phai mờ
Bao lần tiệc đụng dưới cờ
Bao lần thăm hỏi, sớm trưa mặn nồng
Tình anh, em vẫn hằng mong
“ Vườn đào kết nghĩa” vun trồng bền lâu
Mong sao như ý sở cầu
Mong sao Nga – Vạn bên nhau đời đời.
1928
2/ Cụ Hà Đắc Thụy ( 1924 – 2008)
Cụ
Hà Đắc Thụy là người xóm Nhân Mỹ, còn gọi xóm Ngõ Ba, cụ là người tâm huyết với
công việc chung của làng. Cụ đã bỏ công sức sao chép lại hệ thống hoành phi,
câu đối ở Đình làng và đã sơ dịch để giữ gìn tài sản văn hóa của làng ta. Cụ viết
trường ca “ Quê hương Nga My”, dưới đây là trích đoạn.
Quê
Hương
Hát Giang sơn thủy hữu tình
Địa linh nhân kiệt quê mình còn ghi
Quê tôi ấp
trại Nga My
Triều đại Nhà Hán đã ghi rành rành
Đại Vương nhị vị lừng danh
Kinh qua, Ngài thấy dân lành chưa thông
Mở trường giáo hóa hết lòng
Luyện tâm, luyện đức, cầu mong nhân tài
Truyền thuyết kể lại không sai
Dịch được Thần phả thấy tài đức vua
Quán Thiện tên gọi khi xưa
Quán trên mai một, dưới (1)giờ còn kia
Ngôi đình thượng cổ nhớ ghi
Tại xóm Nhân Mỹ (2) khi xưa thờ thần
Đất lành hội tụ đông dân
Chuyển
Thần về Ải(3), rước Thần nguy nga
Nhân chứng còn lại người già
Bãi xưa trồng vải, quán là rừng cây…
Chú
thích của tác giả:
(1) Dưới: Quán dưới,
Quán Thiện còn truyền miệng: Sông sáu đầu biết bao giờ cạn; Quán Nga My biết vạn
nào cây”
(2)
Xóm Nhân Mỹ: Còn gọi là xóm Ngõ Ba
(3)
Ải: Xóm Ải, nay gọi là xóm Lam Đình
3/ Cụ Nguyễn Huy Hiên,
Cụ Nguyễn Huy Hiên, người xóm Thượng
Du, sinh năm 1928, Hội viên Hiệp hội thơ Đường luật UNESCO Việt Nam,
người đã tìm và sao được Thần tích của Nga My Thượng.
Thần
Phả 1
Mừng sao Thần tích thấy rồi,
Thôn Nga My
Thượng bao đời chờ mong
Bây giờ già trẻ vui lòng
Thấy được sự tích sáng trong quê nhà
Đã hơn hai chục ngày qua
Phụ Mẫu Đức
Thánh từ xa trở về
Thương dân
giáo hóa dạy nghề
Hai con văn
võ mọi bề tài hoa
Sắc phong chiếu chỉ ban ra
Nhị vị Thượng
Đẳng, làng ta kính thờ
Bao đời lòng những ước mơ
Sử thần tỏa
sáng bây giờ vui sao.
Thần
Phả 2
Thần tích thôn ta đã thấy rồi
Nỗi vui tràn
ngập mãi trong tôi
Bốn năm xuôi ngược tâm không nản
Ngọc phả hoàn thành dạ thảnh thơi
Cội
Nguồn Hội làng
Mười hai tháng một Hội làng
Là ngày sinh nhật Thành hoàng thôn ta
Nhờ có Thần phả quê nhà
Ngàn đời nay mới tìm ra cội nguồn
Theo
dòng lịch sử
Nga My có
lúc gọi làng Mai
Đất
hẹp, người đông mới tách hai
Thuở trước Tiền nhân tình chẳng nhạt
Ngày nay hậu thế nghĩa không phai
Hai thôn Thượng - Hạ của Nga My
Nét đẹp xa xưa sớm diệu kỳ
Dạ ước tình huynh luôn phát triển
Lòng
mong nghĩa đệ mãi duy trì
Về cội
nguồn
Cội
nguồn My Thượng với My Dương
Nghĩa cử hào hoa đã mở đường (1)
Tám chục năm qua luôn thắm sắc
Tình huynh nghĩa đệ tựa lan hương
15/1/2008
Chú thích của tác giả: (1) Năm Mậu Thìn ( 1928) dưới em ra Quan anh
Vạn Phúc dự hội 3 ngày, nên nhờ anh ( My Dương) xuống bảo vệ Đình Chùa, tính mạng,
tài sản cho thôn em
Cội
nguồn Vạn - Nga
Vạn - Nga, Nga - Vạn từ đâu
Từ trong lao động dãi dầu nắng mưa
Từ
trong sáng cháo ngô trưa
Từ trong mai đấu
năm xưa nên tình
Đón
anh
Ất Hợi tháng một ngày rằm
Tin anh Vạn Phúc vào thăm, em mừng
Toàn dân phấn khởi tưng bừng
Trống dong cờ mở lẫy lừng vui sao
Cờ hồng
liềm búa
Đình
làng My Thượng quê tôi
Nguy nga lộng lẫy bao đời kém đâu
Trải bao mưa nắng dãi dầu
Đình
làng càng đẹp nặng sâu nghĩa dày
Trước
năm 42 nơi đây ( 1942)
Cờ hồng liềm búa ngọn cây nơi này
Trải
qua nhiều trận đánh Tây
Đình
làng hầm nhốt chứa đầy Việt gian
Căm thù quân giặc bạo tàn
Đang tay nỡ đốt đình làng xót xa
Hôm nay thăm lại đình nhà
Mừng vui thấy cảnh thật là khang trang
19/8/1954
Cất
nóc đình làng
Mười sáu tháng chạp vui sao
Lòng
người thôn Thượng xiết bao vui mừng
Toàn dân nhộn
nhịp tưng bừng
Trẻ già phấn khởi vui mừng biết bao
Giàn giáo tầng
thấp, tầng cao
Cụ Sức đại thọ tuổi cao nhất làng
Khăn hồng, áo đỏ, quần vàng
Là người đặt
nóc đình làng hôm nay
Tù và, chiêng trống vui thay
Loa đài trầm
bổng suốt ngày âm vang
Cảm ơn bao tấm lòng vàng
Gần xa
công đức, dân làng quên đâu
Sổ vàng ghi lại mai sau
Họ tên tô đậm dài lâu sáng ngời
16 tháng chạp Tân Tỵ ( 2001)
Vô đề
Ngũ trang thần
tích tựa vầng Đông
Gương sáng Đại Vương tỏa ánh hồng
Quân Hán bủa
vây ra cự chiến
Hy sinh tại chỗ
giữa khu đồng (1)
12/11/Mậu Dần ( 1998)
Chú thích:
(1) Ngày xưa gọi là khu Đống, gồm: Đống
Thánh, Đống Mẻ, Đống Bàng, Đống Ba,... Nay là khu Đồng tắt ngoài, là ruộng của
thôn NgaMy Thượng. Lăng mộ của Đức Thánh ở đây và mả con ngựa chiến của Ngài ở
xứ Nang gần đó.
Tiễn anh
Bâng khuâng nhớ cảnh nhớ người
Nhớ tình, nhớ nghĩa sáng ngời Vạn - Nga
Từ thời
nhà Lý vua ta
Thanh Trì đê vỡ
mười ba năm liền
Chiếu vua sứ giả
phán truyền
Trong em trai gái thay phiên lên đường
Nhớ đê Đình Nhĩ đau thương
Cùng nhau mai đấu vấn vương nên tình
Nhớ đê Vạn Lập đinh ninh
Anh em hợp lực nghĩa tình thủy chung
Nhớ đê Cơ Xá thâm trùng
Nhờ anh giúp đỡ vui mừng lắm thay
Bâng khuâng giờ phút chia tay
Mong sao nhanh chóng có ngày đón anh
Cầu mong hai xã tiến nhanh
Hai thôn đổi mới để thành giàu sang
4/Cụ
Mai Lưu
Cụ
Mai Lưu tên thật là Lê Quỳnh Lưu, người xóm Lan Đình, nguyên Hiệu trưởng trường
THPT Nguyễn Du, Thanh Oai Hà Tây
Gửi tấm
lòng thán phục
(Kính tặng cụ Giáo Hiên)
Mấy bố con
Ở quê - Hà Nội
Ý một lòng mong đợi
Thần phả làng cụ đã xong
lâu
Cội nguồn còn,
nghĩa nặng tình sâu
Lại mong đình thêm nhà
đại bái
Cùng mấy cụ mấy ông
đâu ngại
Dâu, gái góp
đầu, đoàn ước gặp may
Con chở cha, xe chạy như
bay
Bao số nhà hỏi thăm thấm mệt
Gặp người thân,
người chưa hề biết
Lá thư tình, nên
nghĩa thành quen
Giữa phố
phường, cuộc sống đua chen,
Mới hiểu
nông sâu, muôn hình, nhiều vẻ
Mấy bố con cả ngày lặng lẽ
Bởi nhẽ nào? Bao hướng
cùng đi
Mai đây đời sẽ nghĩ gì?
Riêng tôi gửi tấm
lòng thán phục ./.
Chú thích: Ngày
21/11/1999, làng cử một số đại biểu của các ban ngành đi Hà Nội quyên giáo tiền
của người trong thôn để làm đình. Đoàn gồm cụ Hà Đắc Thụy, Nguyễn Huy Hiên, Lê
Quỳnh Lưu, Lê Xuân Đồng, Nguyễn Văn Giáo, Nguyễn Văn Long, v.v. – Đoàn nhờ chị
Nguyễn Thị Hằng, con gái cụ Nguyễn Huy Hiên, là người dẫn đường phái đoàn đi suốt
cả ngày, đến từng nhà ở Hà nội để quyên giáo.
Bảo Vật
Nhớ lại đình ta có những gì?
Thứ còn, cái
mất, tiếc điều chi?
Thành Hoành
thờ đó đâu sự tích?
Dĩ vãng bao đời lúc thịnh suy!
Cội nguồn muốn hiểu, dựa vào đâu?
Tiếc rằng quyển phả mất đã lâu
Con cháu chỉ
nghe lời truyền lại
Bao thế hệ
rồi kể cho nhau!
Bảo vật mừng sao đã thấy rồi
Ngũ trang đã dịch ý thành lời
Bút
tích sáng ngời điều minh chứng
Gương thần gửi
lại mãi cùng soi
Văn tê
Thần Hoàng
Duy, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, Hà Tây tỉnh, Thanh Oai huyện, Thanh Mai xã, Nga My Thượng thôn. Tuế
thứ….. niên, thập nhất nguyệt, thập nhị nhật
Kính
thỉnh Nhị vị Đại vương thân, đồng thượng hạ đẳng toàn dân kính dâng lễ vật
hương hoa. Thần hoàng chứng giám
Từ ngày lập ấp
Nga
My sinh sôi
Bốn
mùa xanh tươi
Ơn
Thần khai dựng
Nay xin cầu nguyện
Đồng
bãi bội thu
Ngành nghề phát triển
Tiền nhiều, thóc dư
Đội trên, xóm dưới
Cửa hiệu, nhà hàng
Tường xây mái ngói
Môi trường khang trang
Mong
sao dân trí
Con cháu giỏi giang
Thơ
ca các cụ
Vui giữa đình làng
Ước ao cuộc sống
Hiếu, hỉ văn minh
Trẻ, già mẫu mực
Trọn
nghiã vẹn tình
Ơn Thần, ơn Bác
Liệt sĩ gần xa
Phù hộ mọi nhà
An khang thịnh vượng
Nam nữ,
lão ấu thôn Nga My Thượng ngưỡng mộ nhị vị Đại Vương thần cầu nguyện.
Cẩn cáo
( Bài Văn tế này đọc
ngày Hội làng năm 2000)
Những
vì sao
Lưu danh nhị vị bậc anh hào
Thần tích
năm trang thỏa ước ao
Võ
nghệ siêu cường, gươm dũng mãnh
Văn chương
lỗi lạc, bút thanh tao
Quý dân
khuyến học, tâm hồn lớn
Yêu nước hận thù, chí khí cao
Trải mấy
ngàn năm còn tỏa sáng
Muôn
đời ngưỡng mộ những “vì sao”
Số liệu
Tính đến tháng 5 năm 2010,
Thôn Nga My Thượng có ( theo Hà Đắc Di):
02 bậc khoa bảng cũ ( Cử nhân
và Tú tài)
04 Tiến sĩ hiện đại
15 Thạc sĩ
270 cử nhân
Trong đó 70 vị đã nộp bản sao
bằng cấp cho Ban khuyến học Thôn.
Làng có 778 hộ dân với 3.139
khẩu ( 1.507 là nữ). Số liệt sĩ trong hai cuộc kháng chiến:
Phần sáu
NHỮNG
VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN
THẦN TÍCH THÔN NGA MY THƯỢNG
I.
Đình làng Nga My Thượng và Nhị vị Thành
Hoàng
1. Đình làng và tục thờ Thành Hoàng:
Theo
trí nhớ của cụ Hà Đắc Thụy ( 1924 –
2008), ngôi Đình thượng cổ của làng ta trước đây đặt tại xóm Nhân Mỹ ( thường gọi
là xóm Ngõ Ba) là trung tâm của làng theo trục Đông - Tây. Chắc rằng lúc đầu
ngôi Đình còn đơn sơ, đất hẹp, vì vậy dân làng có nguyện vọng xây dựng ngôi
Đình khang trang hơn và chuyển địa điểm ra xóm Ải ( nay gọi là xóm Lan Đình). Đến
đời vua Minh Mệnh ( (NGUYỄN PHƯỚC
ĐẢM 1820-1840 ), không rõ năm nào, Cụ Hà Bá Ích, được Triều đình ban cho chức Thủ
Sĩ để làm Đình Làng Nga My Thượng. Để chọn thợ, Cụ Bá Ích đón hai hiệp thợ về
làm nhà thờ chi rồi mời dân đến chọn một hiệp giỏi hơn cho ra làm Đình. Nhà thờ
họ và Đình làng cùng làm rồi cùng bị giặc đốt. Riêng Nghi Môn không bị cháy nên
còn lại đến ngày nay.
Đời vua Minh Mệnh đầu xuân,
Ra ngôi Thủ Sĩ làm tân đại đình,
Trước làm Gia Tự thí trình,
Rồi đem thợ ấy làm đình giúp dân
(
Theo Tài liệu của Kế Chí Tiên sinh Hà Sỹ Nghị,( 1893 – 1960)
Ngôi
Đình đó bị Tây đốt năm 1949, tất cả sắc
phong, Thần phả và ngôi Đình cổ hơn 100 tuổi đều đã không còn.
Ngôi
Đình hiện nay được dựng lại và làm trong nhiều đợt, theo tài liệu của làng ( Làng Nga My Thượng ) là vào năm 1952 và
năm 1999. Trong bài thơ “ Cất nóc Đình
làng”, Cụ Nguyễn Huy Hiên có ghi lại là ngày 16 tháng Chạp năm Tân Tỵ (
2001), Đình làng ta hiện nay làm lại do Cụ Sức, người cao tuổi nhất làng, đã mặc
áo đỏ, quần vàng, đầu quấn khăn hồng lên đặt nóc.
Ở dưới
Bãi có Quán Trên và Quán Dưới là nơi thờ chính, còn ở Đình là nơi thờ vọng hai vị thần Thành Hoàng
làng ta.
Nhân dịp này
tôi có tìm hiểu về việc thờ Thành Hoàng.
Trước hết ta tìm hiểu quan niệm của người xưa về Thành Hoàng. Thành hoàng (chữ Hán: 城 隍) là vị thần được tôn thờ chính trong đình làng Việt Nam.
Vị thần Thành Hoàng dù có hay không có họ tên, lai lịch; và dù xuất thân bất kỳ
từ tầng lớp nào, thì cũng là chủ tể trên cõi thiêng của làng & đều mang
tính chất chung là hộ quốc tỳ dân ( bảo vệ nước giúp dân) ở ngay địa
phương đó. Thần Thành Hoàng đã trở thành một biểu tượng tâm linh; bởi theo
người dân, chỉ có Thần mới có thể giúp cho mưa thuận gió hòa, mùa
màng tươi tốt; giúp cho cuộc sống của dân địa phương đó ngày một thêm ổn
định, thịnh vượng.
Hiểu được nhu cầu tâm
linh của người dân, cộng thêm ý muốn tạo lập một thiết chế văn hóa - tín ngưỡng
chính thống của các Vương triều, để nhằm xóa bỏ dần tầm ảnh hưởng của các triều
đại trước; nên dưới thời các vua đầu nhà Nguyễn,
cứ ba năm xét ban sắc phong thần một lần. Chỉ riêng năm 1852, vua Tự Đức đã sai cấp
đồng loạt 13.069 sắc phong cho cả nước (nhiều nhất là ở Nam Bộ).
Theo sách Việt Nam phong tục (của
Phan Kế Bính), thì mỗi làng phụng sự một vị Thành Hoàng; có làng thờ hai ba
vị, có làng thờ năm bảy vị ( như làng ta thờ hai vị, làng Nhật Tân thờ bảy vị,
làng Đình Bảng thờ tám vị), gọi chung là Phúc Thần.
Phúc Thần có ba bậc:
- Thượng Đẳng thần là những bậc thiên thần
như Đổng thiên vương, Chử Đồng Tử, Liễu Hạnh Công chúa...Các vị ấy có sự tích linh
dị, mà không rõ tung tích ẩn hiện thế nào, cho nên gọi là Thiên thần. Thứ nữa là các vị như: Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo...Các vị này khi sống có công lao
to lớn với dân với nước; lúc mất đi, hoặc bởi nhà vua biểu dương công trạng mà
lập đền thờ hoặc bởi lòng dân nhớ công đức mà thờ. Các vị thần ấy đều có sự
tích công trạng hiển hách và họ tên rõ ràng, gọi là Nhân
thần, triều đình có mỹ tự phong
làm Thượng Đẳng thần.
- Trung Đẳng thần là những vị thần được dân
làng thờ đã lâu, có họ tên mà không rõ công trạng; hoặc là có quan tước mà
không rõ họ tên, hoặc là những thần có chút linh dị, tới khi nhà vua sai tinh kỳ
đảo vũ, cũng có ứng nghiệm thì triều đình phong làm Trung Đẳng thần.
- Hạ Đẳng thần là do dân làng thờ phụng, mà
không rõ sự tích , nhưng cũng thuộc về bậc chính thần, thì triều đình cũng theo
lòng dân mà phong cho làm Hạ Đẳng thần.
Ngoài ba bậc thần ấy, còn nhiều nơi thờ
tùy tiện, như: thần bán lợn, thần trẻ
con, thần ăn xin, thần chết nghẹn, thần tà dâm, thần rắn, thần rết...do dân tin
bậy mà thờ thì không được triều đình phong tặng gì.
Thành Hoàng được thờ trong miếu hoặc trong đình. Có nơi vừa có miếu
vừa có đình. Làng to ( có nhiều thôn)
thì mỗi thôn lập riêng một đình.
Miếu ( hay còn gọi là quán ) là chỗ quỷ thần bằng y ( ngự ), đình là nơi thờ vọng đồng thời để làm nơi công sở cho dân
hội họp. Miếu thường chọn những nơi đất đẹp, nhất là ở trên gò cao, hoặc ở nơi
gần hồ to, sông lớn. Đình thì tùy chỗ nào trung độ tiện cho dân làng hội họp.
Đình và miếu thường trồng nhiều cây cối cổ thụ tạo sự thâm nghiêm, tĩnh mịch.
2. Thành Hoàng làng Nga My Thượng:
Theo Thần phả, Nhị vị
Thành Hoàng làng ta là Nhân thần,
thuộc bậc Thượng Đẳng thần và được sắc
phong từ thời Hán Bình Đế. Không thấy
các triều đại và các đời vua Việt Nam ban sắc phong tiếp, hoặc có lẽ cũng đã bị
cháy năm 1949 rồi. Thật đáng tiếc.
Bản Thần tích mà chúng ta có hôm nay được
Nguyễn Hữu Dực ( chắc là Đổng lý văn phòng )
phụng mệnh vua Thành Thái sao lại vào năm 1899 cho hai thôn Nga My Thượng,
Nga My Hạ thờ phụng ( như vậy Trại Nga My gồm 2 thôn).
Tư liệu về vua Thành
Thái:
|
Vua Thành Thái (chữ
Hán: 成泰; 1879 – 1954) là vị vua
thứ 10 của nhà Nguyễn, trị vì từ 1889 đến 1907. Do chống Pháp nên ông, cùng
với các vua Hàm Nghi và Duy Tân,
là 3 vị vua yêu nước trong lịch sử Việt Nam thời Pháp
thuộc
Chúng ta chú ý một chi tiết là Đức
Thánh “ Thiện” hóa và an táng tại phủ Long Biên, ngay khi đó vua Hán đã
sai sứ đến tế, lại phong cho làm phúc thần cho dân phủ (phủ Long Biên) lập miếu
thờ phụng. Như vậy nơi thờ chính của Thần là Phủ Long Biên. Còn Cửu Chân, Nam Hải, Nhật Nam, Hải Dương, Nga
My thuộc diện được rước mỹ tự về thờ phụng.
Đức Thánh “ Thiện” được phong là Thiện
Nguyên Công, Tế thế, Hộ quốc, Đại Vương.
Đức Thánh “Quang” được phong là Quang Lai Công, Dực vận, Hiển hựu, Đại
Vương
-
Theo tôi hiểu, Thiện Nguyên Công
là tước công, cao nhất trong năm tước ( công, hầu, bá, nam, tử). Khi còn sống
ngài đã được phong tước Hầu, khi hóa, ngài được truy tặng tước Công, gọi là Thiện
Nguyên Công. Quang Lai Công cũng vây,
cũng là tước công đựoc truy tặng, gắn
với tên húy.
Trong lịch sử nước ta cũng có một số
người được phong tước công gắn với tên riêng. Ví dụ: Võ Duy Chí, làm quan đời
Lê Thần Tông, quê Hải Dương được phong tước Công gọi là Chí Quận công.
- Tế thế, Hộ quốc, Dực vận, Hiển hựu là những mỹ tự dùng để
ca ngợi, biểu dương công trạng của Thần. Tế
thế lấy trong câu ( động từ ) “Kinh
bang Tế thế”, với nghĩa là “ dựng nước
giúp đời” để ca ngợi tài năng của người được nói tới. Thí
dụ: Nguyễn Trãi có tài Kinh bang tế thế.
- Hộ
quốc là bảo vệ đất nước, giữ nước. Có câu”: Hộ quốc tỳ dân” có nghiã là bảo vệ đất nước, giúp đỡ nhân dân.
- Dực vận, Hiển hựu là những
mỹ từ chỉ sự hiển linh giúp nước, yên dân
( có lẽ từ câu: Khang dân dực vận).
- Đại vương là tước hiệu cao nhất ( đối
với những người không phải là vua chúa) được phong cho thần .
Tôi hiểu một cách đơn giản thì nhà Vua
dùng các mỹ tự để thể hiện Duệ hiệu của hai Ngài, Duệ hiệu gồm có 3 phần:
Tước vị khi làm quan của triều đình ( nơi trần thế)
|
Tài năng, đức độ, công lao
|
Tước vị trong thế giới thần linh
|
Thiện
Nguyên Công
|
Tế thế, Hộ
quốc
|
Đại Vương
|
Quang Lai
Công
|
Dực vận, Hiển
hựu
|
Đại Vương
|
Gộp
cả lại là một câu thống nhất mà những từ đứng trước từ Đại Vương đóng vai trò
tính từ, bổ nghĩa cho danh từ Đại Vương. Thế cho nên có những vị thần được các
triều đại bổ sung thêm các tính từ ( mỹ tự ) và Duệ hiệu hoặc Miếu hiệu ( nếu
là của các bậc đế vương ) cứ dài dần ra.
Thí dụ
- Năm Hi tông Hoàng đế thứ 10 (1623) sắc
phong cho Ông Lương Văn Chính là tiền trấn
doanh tham tướng, phù quận công bảo quốc chi thần.
- Năm Hi Tông Hoàng đế thứ 14 (1627) sắc
phong cho Ông Lương Văn Chính là: tiền trấn doanh tham tướng, phù quận công bảo
quốc, hộ dân chi thần.
- Năm Thế tông canh thân năm thứ 2 (1740) tặng
thêm cho Ông Lương Văn Chính là tiền trấn doanh tham tướng, phù quận công bảo
quốc hộ dân hựu thuận chi thần
- Năm Vua
Lê Hiển Tông niên hiệu Cảnh Hưng 5 (1744) tặng thêm cho Ông Lương Văn Chính là tiền
trấn doanh tham tướng, phù quận công bảo quốc hộ dân hựu thuận phong công chi thần
- Năm Vua Lê Hiển Tông niên hiệu Cảnh Hưng thứ 28 tặng thêm cho Ông
Lương Văn Chính là : tiền trấn doanh tham tướng, phù quận công bảo quốc hộ dân
hựu thuận phong công tinh tiết chi
thần. v. v…
II. Một số nghiên cứu ban đầu nhằm giúp chúng ta hiểu rõ hơn sự tích các Thần
Thành Hoàng làng ta;
1. Khái
quát giai đoạn Nhị Vị Đại vương xuất thế.
Để dễ dàng nắm đựơc toàn cảnh tình hình thời
kỳ hai vị Đại Vương ra đời, hoạt động và hành tại Nga My đã nêu trong thần
tích, tôi xin nêu rất tóm tắt tình hình trước, trong và sau giai đoạn từ Hán
Chiêu Đế đến Hán Ai Đế. Giai đoạn trước lấy từ thời Thục Phán An Dương Vương,
giai đoạn sau tính đến thời Hai Bà Trưng. Sở dĩ lấy bối cảnh như vậy vì An
Dương Vương và Hai Bà Trưng là những nhân vật lịch sử người Việt Nam nào cũng
biết, vì vậy dễ liên hệ.
Năm Giáp Thìn ( 257 trước CN ) Thục Phán
đánh bại vua Hùng thứ 18, chiếm nước Văn Lang, xưng là An Dương Vương, cải quốc
hiệu là Âu Lạc, sau đó đánh thắng 50 vạn quân Tần xâm lược, xây thành Cổ Loa và
đóng đô tại đó. Nhà Thục tồn tại 50 năm ( 257- 207 TCN).
Nhân khi nhà Tần suy yếu ( đời Tần Nhị
Thế), Triệu Đà lập ra nước Nam Việt gồm 3 quận: Nam Hải, Quế Lâm, Tượng Quận ( thuộc Quảng Đông, Quảng Tây Trung Quốc), tự
xưng là Nam Việt Vũ Vương và xâm lược nước Âu Lạc ở phía nam. Triều đình Cổ Loa
mất cảnh giác bị Triệu Đà cho quân tiến đánh. An Dương Vương tự tử. Nước Âu Lạc
bị chia làm 2 quận (là Giao Chỉ & Cửu Chân) và bị sáp nhập vào nước Nam Việt
của Triệu Đà (207 tr.CN – Giáp Ngọ). Nước Nam Việt tồn tại được năm đời vua, tổng
cộng 97 năm. Trong các tài liệu lịch sử , các triều đại phong kiến đều đưa giai
đoạn họ Triệu cai trị vào lịch sử Việt
Nam, coi đó là một giai đoạn lịch sử kế tục
giai đoạn Thục phán An Dương
Vương ( chứ không phải là bị ngoại bang thống trị), tuy nhiên nhiều nhà sử học
không tán hành điều đó.
Ở bên Trung Quốc, sau khi tiêu diệt nhà
Tần, Lưu Bang ( Hán Vương) tiến hành chiến tranh và đánh thắng Hạng Võ ( Sở Bá
Vương ). Lưu Bang lên ngôi Hoàng đế ( Hán Cao Tổ), thành lập chính quyền đế quốc
Đại Hán trên toàn đất Trung Hoa. Vương triều nhà Hán chia làm 2 giai đoạn nên
thường gọi là Lưỡng Hán. Lưỡng Hán tồn tại từ năm 206 truớc CN đến 220 sau CN.
Cao tổ Hoàng Đế Lưu Bang ( làm vua từ năm 206 tr.CN đến năm 194 tr .CN) là người
mở đầu nhà Hán cách đây 2.215 năm. Trong đó Tây Hán (hay Tiền Hán) từ năm 206
trước CN đến năm 25 sau CN, gồm 15 đời
vua. Đông Hán ( hay Hậu Hán) từ năm 25 đến 220 sau CN, gồm 12 đời vua.
Sau Hán Cao Tổ 6 đời vua là Hán Vũ Đế. Hán
Vũ Đế ( 140 đến 86 trước CN) chiếm nước ta vào năm 111 trước CN. Sau Hán Vũ Đế
là Hán Chiêu Đế. Sau Hán Chiêu Đế, cách 3 đời vua nữa gồm 68 năm là đời vua Hán
Ai Đế ( là đời vua thứ 11 của nhà Hán).
Năm 111 tr.CN ( Canh Ngọ), Nhà Hán ( lúc
đó là năm Nguyên Phong thứ nhất đời Hán Vũ Đế)
thôn tính nước Nam Việt, chia thành 9 quận, trong đó nước Âu Lạc cũ bị
chia làm 3 quận là: Giao Chỉ ( Bắc Bộ), Cửu Chân (Bắc trung Bộ), và Nhật Nam (
Trung Trung Bộ ).
Năm 106 tr.CN ( Ât Hợi), Nhà Hán lập
Giao Chỉ Bộ, bỏ đi 2 quận ở ngoài biển ( Châu Nhai và Đạm Nhĩ nhập vào Hợp Phố),
cai trị 7 quận ( gồm cả Quảng Đông, Quảng Tây và Miền Bắc Việt Nam hiện nay).
Trung tâm của Giao Chỉ Bộ là quận Giao
chỉ. Trị sở của quận Giao Chỉ là đất Mê Linh ( Hạ Lôi, Mê Linh, Vĩnh Phúc). Đứng
đầu Châu ( hoặc Bộ) là chức Thứ Sử, phụ trách thanh tra công việc của các quận.
Mỗi quận có một viên Thái Thú và một viên Đô úy ( phụ trách dân sự và quân sự
). Bên dưới quận là các huyện vẫn do người địa phương nắm giữ và trị dân như
cũ. Phương thức bóc lột vẫn là cống nạp.
Đây là thời kỳ Tiền Hán ( còn gọi là Tây
Hán). Theo như Thần tích, hai vị Đại Vương ra đời và hoạt động trong thời kỳ từ
đời Hán Chiêu Đế cho đến Hán Ai Đế. Từ
Hán Chiêu Đế đến Hán Ai Đế có các đời vua sau: Hán Chiêu Đế ( 13 năm ), Hán
Tuyên Đế ( 26 năm), Hán Nguyên Đế (16 năm), Hán Thành Đế ( 26 năm ), Hán Ai Đế
( 6 năm ), tiếp đó là đời vua Hán Bình Đế ( 5 năm), người đã phong Thần cho 2 vị
Đại Vương.
Sang thời Đông Hán ( Hậu Hán), vua Hán
Quang Vũ tiếp tục cai trị nước ta ( từ năm 25 đến năm 58 ), năm 34 ( Giáp ngọ)
cử Tô Định sang làm Thái thú Giao Chỉ. Tô Định tàn ác, lòng dân Âu Lạc oán hận.
Mùa xuân năm 40, Hai Bà Trưng hội quân ở
sông Hát, lập đàn thề, phất cờ khởi nghĩa, đánh đổ chính quyền đô hộ nhà Hán,
Bà Trưng Trắc lên làm vua, gọi là Trưng Vương, đóng đô ở Mê Linh.
Năm 43 ( Quý Mão) Nhà Hán sai Mã Viện mang
quân phản công, Hai Bà Trưng hy sinh anh dũng, nhà Hán lại tiếp tục cai trị nước
ta cho đến năm 220.
2. Về hai vị Đại Vương và một số nhân vật, địa
danh được đề cập đến trong Thần tích:
2.1. Hai vị Đại Vương sinh ra
thời Hán Chiêu Đế. Hán Chiêu Đế tên
là Lưu Phất Lang, sinh năm 95 trước
CN, làm vua từ năm 86 đến 73 trước CN
( như vậy làm vua lúc 9 tuổi). Hán Chiêu Đế lên ngôi vua cách đây 2.096 năm ( 2010 +
86). Trước cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng 126 năm.
* Tư liệu về Hán Chiêu Đế:
|
2.2. Quang
Lai Công mất vào thời kỳ Hán Ai Đế trị vì. Hán Ai Đế (chữ Hán:
漢哀帝; 26 TCN – 1 TCN) tên thật là Lưu
Hân (劉欣) là vị vua thứ 12 của nhà Hán
trong lịch sử Trung Quốc. Ông ở ngôi từ năm 7 TCN đến
năm 1 TCN. Như vậy, Hán Ai Đế lên ngôi vua cách đây 2.017 năm . Trước cuộc khởi
nghĩa Hai Bà Trưng 47 năm.
* Tư liệu về Hán Ai Đế:
Hán Ai Đế
|
|||
Hoàng đế Trung Hoa
|
|||
Hoàng đế nhà Hán
|
|||
|
|||
Tiền nhiệm
|
|||
Kế nhiệm
|
|||
|
|||
Tên thật
|
|||
Lưu Hân
|
|||
Thụy hiệu
|
Hiếu Ai Hoàng đế
|
||
Triều đại
|
|||
Thân phụ
|
Định Đào Cung vương Lưu
Khang
|
||
Sinh
|
|||
Mất
|
*Tư
Liệu về Hán Bình Đế, người sắc phong thần cho Nhị vị Đại Vương:
Hán Bình Đế (chữ Hán:
漢平帝; 9 TCN - 5), tên thật là Lưu Khản (劉衎) hay Lưu Diễn, làm vua từ năm 01TCN đến 05 CN. Lên ngôi
lúc 09 tuổi, cách đây 2.010 năm, bị gian thần Vương Mãng bức chết khi 14 tuổi,
.là vua thứ 13 nhà Tây Hán
trong lịch sử Trung Quốc. Ông ở ngôi từ năm 1 TCN - 5 CN.
2.3. Về Bảy quận ở Nam Việt thời Hán Chiêu Đế:
Năm 111 trước CN, sau khi xâm
lược Nam Việt, nhà Hán đổi Nam Việt thành Giao Chỉ bộ và chia thành 9 quận:
-
Nam Hải ( nay là Quảng Đông TQ)
-
Thượng Ngô ( nay là Quảng Tây TQ)
-
Uất Lâm ( nay cũng thuộc Quảng Tây TQ)
-
Hợp Phố ( nay cũng thuộc Quảng Đông, TQ)
-
Giao Chỉ ( nay thuộc Bắc bộ VN)
-
Cửu Chân ( Thanh Hóa)
-
Nhật Nam ( Nghệ An, Hà Tĩnh)
-
Châu Nhai ( thuộc
đảo Hải Nam TQ)
-
Đạm Nhĩ ( cũng thuộc đảo Hải Nam TQ)
Trong 9 quận đó chỉ có 3 quận thuộc
Âu Lạc của chúng ta là Giao Chỉ, Cửu
Chân, Nhật Nam.
Chín quận
nói trên về sau bỏ đi 2 quận Châu Nhai và Đạm Nhĩ ( nhập vào Hợp Phố ), còn lại
7 quận.
Trong Thần
tích có nói đến 7 quận là Châu Nhai, Đạm Nhĩ, Thương Ngô, Quảng Tín, Phiên
Ngung, Lộc Lãnh. Trong đó Phiên Ngung là nơi đóng đô của Triệu Đà, nay
là Quảng Châu, thuộc Quảng Đông Trung Quốc. Các
quận Quảng Tín, Phiên Ngô, Lộc Lãnh, tôi có tra cứu nhiều tài liệu nhưng không
thấy nói đến. Tuy nhiên chắc chắn không phải ở Việt Nam vì ở Việt Nam lúc đó chỉ
có 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam mà thôi.
2.4. Về chức tước của Nhị Thánh khi tại thế:
Thần tích từ đoạn chép: “Về sau ông bà sinh hạ được ông Thiện…”
cho đến câu “ Ngày hôm đó ông không bệnh tật gì mà hóa ( vào ngày 10 tháng 8 năm Bính
Ngọ)” chủ yếu nói về Đức Thánh “Thiện”.
Tiếp theo mới là nói về Đức Thánh “Quang”. Vì vậy câu viết : “ Dân chúng kính trọng suy tôn ông làm Châu
trưởng” là nói về Đức Thánh “Thiện”.
Sau đó Ông Thiện được Sầm Bành tiến cử, Ngài mới được vua ưng thuận sai làm chức
Châu Thú đem quân đi dẹp loạn. Còn Đức
Thánh “Quang”, chỉ sau khi Đức Thánh “ Thiện” qua đời, vua Hán mới “sai ông Quang thay quyền cai trị ở phủ”,
tức là cũng chức Châu thú.
Qua Thần tích ta có thể hiểu rằng cả
hai Ngài đều làm Châu Thú, một người làm trước, một người làm sau. Riêng Đức
Thánh “ Thiện” còn đựoc dân suy tôn làm Châu Trưởng .
Vậy có phải Đức Thánh “ Thiện” giữ hai
chức Châu Trưởng và Châu Thú không? Không phải. Theo tôi, Chức Châu trưởng chỉ
là do dân suy tôn lên (không có lương bổng), không phải chức do Nhà nước bổ nhiệm.
Tuy nhiên Ngài đã rất tích cực hoạt động ở vị trí Châu Trưởng do dân cử, do đó
Thái Thú Chu Chương mới dâng sớ tiến cử và nhờ vậy Ngài được Vua Hán Chiêu Đế
phong tước Hầu. Đến khi 7 quận nổi dậy chống nhà Hán, Ngài được Sầm Bành tiến cử
và lúc đó Ngài mới đựoc phong chức Châu Thú.
Ở đây rất khó phân biệt chức vụ của Hai
Vị Đại vương khi còn đương chức. Bởi vì:
-
Chưa tìm thấy có tài liệu nào nói
đến tên, chức tước và thời kỳ hoạt động
của 2 Ngài ( ngoài Thần tích mà chúng ta đang có).
-
Theo “Đại Việt sử ký toàn thư”
thì thời Tây Hán có Bộ Giao Chỉ ( sau này đổi thành Giao Châu) và Quận Giao Chỉ
.
Đứng đầu quận là Thái thú, cai quản các huyện trong quận. Quận
Giao Chỉ (Giao Chỉ quận) nằm trong Bộ Giao Chỉ (Giao Chỉ Bộ).
Đứng đầu Bộ Giao Chỉ là một Thứ sử ( cũng có lúc gọi là Thái Thú ) cai
quản 9 quận như đã trình bày ở trên. Thứ sử đầu tiên là Thạch Đái. Quận trị của
quận Giao Chỉ có thể ban đầu đã đặt tại Mê Linh, sau này đặt tại Liên Lâu (nay
thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Khi Chu Xưởng làm Thái thú, quận Giao
Chỉ đã dời quận trị đến Long Biên.
Theo Thần tích: “ Thiện Nguyên Công” được phong làm Châu Thú đi dẹp loạn ở 7 quận.
Sau đó lại có câu: “Từ khi ông làm Thái
Thú…” Bản âm Hán - Việt viết: “Tự
công vi Thái Thú…” và như vậy có thể hiểu là chức Thái Thú cấp bộ ( hoặc
Châu) chứ không phải là cấp quận hay cấp huyện. Vì chỉ có ở cấp Bộ thì mới mang
quân đi đánh dẹp ở 7 quận khác.
Tuy nhiên sau đó lại có đọan “ Sau khi ông mất, vua Hán sai ông Quang thay quyền cai trị ở phủ” và “ Đặng Nhượng sai ông Quang đi trấn giữ cửa ải”, nếu vậy thì chức mà “
Quang Lai Công” thay chỗ của “ Thiện Nguyên Công” không phải là
Thái thú cấp Bộ, vì vẫn dưới quyền của Thái thú Đặng Nhượng ( là Thái thú cấp Bộ).
Hơn nữa phía trên đoạn này còn có câu “ Ông
ưng thuận rồi cùng ông Quang trở về phủ
huyện”. Có nghĩa là Ngài về phủ
của huyện sau khi hành tại ở Nga My (chứ không phải về phủ của Bộ hay của
Châu). Chính các chi tiết này lại làm tôi phân vân. Hay là Hai Vị Đại vương chỉ
làm Thái thú cấp quận, mà là quận Giao Chỉ ( thì phủ của ngài mới ở đất Long Biên)
và khi đi dẹp loạn 7 quận là do được nhà vua tạm trưng dụng mà thôi, sau đó lại
trở về quận huyện. Nếu là Thái thú quận Giao Chỉ thì quận đó sau này giữ vị trí
thủ phủ của Bộ Giao Chỉ và theo sách Tiền Hán thư, địa lý chí thì quận
Giao Chỉ gồm có 10 huyện: Liên Lâu, An Định,
Câu Lậu, Mê Linh, Khúc Dương, Bắc Đái, Kê Từ, Tây Vu, Long Biên và Chu Diên.
Đại Việt sử ký ngoại kỷ toàn thư, quyển
III, Kỷ thuộc Tây Hán có chép rằng: “Đến
cuối đời Vương Mãng, Giao Châu mục là Đặng Nhượng cùng các quận đóng chặn bờ
cõi để tự giữ. Tướng nhà Hán là Sầm Bành vốn quen thân với Nhượng, bày tỏ công
đức của nhà Hán. Bấy giờ Nhượng đem Thái thú Giao Chỉ là Tích Quang và Thái thú
các quận là bọn Đỗ Mục sai sứ sang cống hiến nhà Hán. Nhà Hán đều phong làm liệt
hầu cả. Bấy giờ là thời Hán Quang Vũ năm Kiến Vũ thứ 5, là năm Kỷ Sửu ( năm 29
sau công nguyên)”. Đoạn này cho thấy
lúc đó có chức Giao Châu mục ( do Đặng Nhượng làm), dưới Giao Châu mục
có Thái thú Giao Chỉ và Thái thú các quận. Nhân vật Tích Quang ở đoạn này rất
giống với Quang Lai công ( Đặng Quang),
một trong hai vị thần Thành Hoàng làng ta, vì trong Thần tích cũng chép: “ Đến thời vua Ai Đế nhà Hán, Đặng Nhượng làm
Thái thú đô hộ, gặp lúc Vương Mãng nổi loạn, Đặng Nhượng sai ông Quang đi trấn
giữ cửa ải…”. Nhân vật Sầm Bành trong Thần tích là Thái thú bản châu; còn Sầm
Bành trong Đại Việt sử ký toàn thư là tướng nhà Hán, quen thân với Đặng Nhượng.
Chi tiết đi sứ để cống lễ vật cho nhà Hán, trong Thần tích, ông Thiện sai ông
Quang “thay mình đến cống vua Hán đồng thời
cho ông Quang làm việc ở phủ”; còn trong sử ký là Đặng Nhượng “đem Tích Quang và Thái thú các quận.. sai sứ
sang cống hiến nhà Hán”. Sau Tích Quang, trong Sử ký có nói đến nhân vật
Nhâm Diên có nhiều nét giống ông Thiện, Thành Hoàng làng ta. Sử ký chép: “ Phong hóa văn minh của đất Lĩnh Nam bắt đầu
từ hai Thái thú ấy” ( tức là ông Tích Quang và ông Nhâm Diên); còn trong Thần
tích thì chép “ phong tục tốt đẹp ở Nam
Châu đều nhờ công lao của ông” ( tức là ông Thiện). Vì có những nét tương tự
như vậy, hơn nữa, tôi rất ngạc nhiên là hai vị Đại vương làng ta có công trạng và được sắc phong của các vua Hán như vậy, vì sao lại không thấy
nhắc đến trong các tài liệu sử sách. Tôi tìm hiểu về ông Nhâm Diên và ông Tích
Quang thì có các thông tin như sau:
+ Nhâm Diên (tiếng
Trung: 壬延) , người huyện Uyển,
là Thái thú quận Cửu
Chân vào đầu thế kỷ 1 thời Hán
Quang Vũ Đế, giai đoạn Bắc thuộc lần I trong lịch
sử Việt Nam.
Theo An Nam Chí lược: “ 12
tuổi (ông Nhâm Diên) đã thông hiểu Kinh Thi, Kinh Dịch, Kinh Xuân thu, nổi
tiếng trong trường Thái học, người ta gọi là Nhâm
Thánh Đồng.
Nhâm Diên sang làm Thái thú khoảng sau năm
29. Ông là người trị dân có lòng nhân chính. Nhâm Diên ở Cửu Chân được 4 năm
thì được thăng chức về Trung Quốc đi làm quan chỗ khác. Dân sự quận ấy ái mộ
Nhâm Diên, làm đền thờ. Cớ người vì được nhờ
quan Thái thú cho nên sau sinh con ra, lấy tên Nhâm mà đặt tên cho con để tỏ
lòng biết ơn.
+
Tích Quang , người quận Hán Trung. Vào đầu thế kỷ 1 thời Bắc thuộc lần I, ông sang làm Thái thú của Giao Chỉ. Ông là
người trị dân có nhân chính.
Tích Quang làm Thái thú quận Giao
Chỉ từ đời vua Hán
Bình Đế nhà Tây
Hán, vào quãng năm 2 hay 3. Ông là người hết lòng lo việc khai hóa,
dạy dân lấy điều lễ nghĩa, cho nên dân trong quận có nhiều người kính phục.
Không rõ năm sinh, mất, chỉ biết rằng năm Kiến Vũ thứ 5 (29) đời vua Hán
Quang Vũ Đế ông vẫn còn sai người sang cống cho triều Hán.
Những điểm giống nhau giữa ông Nhâm Diên và ông Thiện (
Thành hoàng), giữa ông Tích Quang và ông
Quang ( Thành Hoàng):
+
Nhâm Diên 12 tuổi được xưng là Thánh đồng, Thiện Đại Vương 13 tuổi cũng được
xưng tụng là Thánh đồng, Hai người đều được dân lập sinh từ (thờ lúc còn sống)
để thờ
+ Quang Đại Vương và Tích Quang
có tên húy trùng nhau
+ Hai Đại Vương đều có công với
dân và được thờ phụng. Trong các quan lại thời
nhà Hán, ngoài Sĩ Nhiếp ra, chỉ có Nhâm Diên và Tích Quang là được đánh
giá có công với dân và được thờ. Hai Đại Vương của làng ta cũng có công như vậy
ít nhất là trong phạm vi quận Long Biên, nhưng không thấy sách nào nói đến(?).
+
Quan điểm của tôi: Qua hàng ngàn năm Bắc thuộc, có thể có sự ảnh hưởng qua lại
giữa các nhân vật lịch sử và dã sử. Nhâm Diên và Tích Quang là nhân vật được
chính sử nhắc đến, độ tin cậy cao, hai người đều được đưa từ Trung Quốc sang
Giao Châu. Thiện công và Quang công trong Thần tích được cất nhắc làm quan tại
Giao Chỉ sau khi có mối quan hệ tốt với dân, được dân tín nhiệm tôn làm Châu trưởng.
Rất có thể cha ông là người Hán sang
định cư tại Âu Lạc và lấy vợ người Việt ( ông Đặng Vận lấy vợ là Tạ Thị Cẩn,
tên người Hán ít khi đệm chữ Thị, thường là người Việt, hơn nữa đây cũng là
người trong quận). Sở dĩ phỏng đoán
Thiện Công là người Hán – Việt mà không phải là người Việt hoàn toàn vì
ông có năng lực “giáo hóa” dân, dạy dân chữ nghĩa và ông khi 13 tuổi đã thông
kinh thuộc sử. Chúng ta nhận thấy ngay đấy là văn hóa của người Hán.. Hai ông
được vua Hán sắc phong Thượng đẳng phúc thần. Sắc phong này không thấy nhắc đến
khi nói về Nhâm Diên và Tích Quang . Một ngàn năm Bắc thuộc, lịch sử của người
Việt thường chỉ ghi bằng trí nhớ. Đại Việt sử ký toàn thư cũng chỉ được viết
thành văn vào cuối thế kỷ XV, có nghĩa là 1.500 năm sau đó. Vì vậy chúng ta
cũng không thể đòi hỏi chính xác được. Chỉ biết rằng, người nào thương dân,
giúp dân, bảo vệ dân, có công với dân thì được dân thờ. Hai vị Đại vương Thành
Hoàng làng ta là trong trường hợp đó.
2.5. Quận Cửu Chân thời Hán Chiêu Đế nay
thuộc xã, huyện, tỉnh nào?
Theo sách “ Các triều đại Việt Nam” thì Cửu Chân là Thanh hóa ngày nay. Nhưng theo Wikipedia
thì thời
thuộc Hán
, quận Cửu Chân được thành lập là vùng đất bao gồm: Thanh Hóa,
Nghệ An,
Hà Tĩnh
và một phần Ninh Bình ngày nay. Lúc đó, Quận Cửu Chân gồm 7
huyện: Tư Phố, Cư Phong, Đô Lung, Dư Phát, Hàm Hoan, Vô Thiết.
2. 6.
Phủ Long Biên thời Hán Chiêu Đế nay thuộc huyện, tỉnh nào?
Theo
“Địa chí văn hóa dân gian Thăng Long- Đông Đô Hà Nội” của Đinh Gia Khánh
thì Thành Long Biên ở ven sông Thiếp ( tức sông Ngũ Huyện Khê) chảy từ sông Hồng
sang sông Cầu qua huyện Đông Anh ( ngoại thành Hà Nội), huyện Tiên Sơn, huyện
Yên Phong, thị xã Bắc Ninh. Có lẽ thành này ở vào khoảng các làng Chi Long,
Phong Khê, Đông Yên, thuộc huyện Yên Phong.
Cũng có sách nói, Long Biên là
Hà Nội ngày nay.
2.7. Những nơi được thờ Đức Thánh như: Cửu
Chân, Nam Hải, Nhật Nam, Hải Dương thời Hán Chiêu Đế nay thuộc thôn, xã, huyện, tỉnh nào?
Như đã trình bày ở trên, có 2 tài liệu
viết khác nhau. Ý kiến của tôi cho rằng Cửu Chân thuộc tỉnh Thanh Hóa và một phần
Ninh Bình ngày nay. Nhật Nam thuộc Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay. Nam Hải thì ở
Trung Quốc ngày nay, còn Hải Dương, không biết có phải Hải Dương ngày nay không
hay cũng là ở Trung Quốc. Vì nếu là Hải Dương hiện nay thì lúc đó phải thuộc quận
Giao Chỉ. Trừ Trại Nga My ra, các nơi khác mà Thần phả nêu (chỉ nêu cấp quận),
không thể xác định được thôn, xã, huyện, tỉnh cụ thể. Tôi đã tra cứu danh mục
Thành Hoàng ở các tỉnh, nhưng không thấy tên “ Thiện Nguyên Công” và “
Quang Lai Công”.
Có một vài trường hợp tôi thấy nghi ngờ.
tôi chép ra đây để cùng tham khảo. Đó là trường hợp các Thần có tên sắc phong
là:
-
Tế thế Hộ quốc Đại Vương được thờ ở vùng Phú Thọ;
-
Thiện Công, thờ ở Hải Dương;
-
Thiện Công Tế thế Đại Vương, cũng thờ ở Hải Dương;
-
Dực vận… Đại Vương, thờ ở Hưng Yên, Hà Đông, Bắc Ninh,
Sơn Tây;
-
Quang Công, thờ ở Bắc Ninh và Hải Dương.
Trích văn bản của Viện Hán - Nôm viết về điều trên:
Tế thế hộ quốc đại vương
|
|
|
Thiện
công
|
|
|
Thiện
công (hồi thiện tế thế... đại vương)
|
|
|
Dực vận
... đại vương
|
|
1. Hưng
Yên tỉnh Kim Động huyện các xã thần tích (AE.a3/6)
2. Bắc Ninh tỉnh Tiên Du huyện Nội Duệ tổng các xã thôn thần sắc (AD.a7/29) 3. Hà Đông tỉnh Chương Mỹ huyện các xã thần sắc (AD.a2/4) 4. Hà Đông tỉnh Sơn Lãng huyện Thái Bình tổng Đặng giang xã thần sắc (AD.a2/34) 5. Sơn Tây tỉnh Phúc Thọ huyện Cam Thịnh tổng các xã thần sắc (AD.a10/1) |
Quang
công
|
|
1. Bắc
Ninh tỉnh Từ Sơn phủ Đông Ngàn huyện Hà Lỗ tổng các xã thần tích
(AE.a7/1)
2. Hải Dương tỉnh Gia Lộc huyện các xã thần tích đệ nhị sách (AE.a6/10) 3. Hải Dương tỉnh Nam Sách phủ thần tích (AE.a6/15) |
III. Một vài ý suy nghĩ từ những điều
trên.
1.
Liên hệ qua
nghiên cứu Thần tích Nhị vị Thành Hoàng.
1.1. Dù Nhị
Thánh là gốc Việt hay gốc Hán, và khả
năng nhiều nhất là gốc Hán nhưng đã Việt hóa ( Ngài Đặng Vận lấy vợ họ Tạ là
người Việt sống trong quận Giao Chỉ và sinh ra Thánh Đặng Thiện cũng trên đất
Giao Chỉ), thì công đức của hai vị Thành
Hoàng đối với dân Nga My và với Âu Lạc trong thời kỳ lịch sử đó
( đến lúc đó, nhà Hán đã đô hộ được vài chục năm trên tổng số 1.000 năm Bắc thuộc)
cũng được khẳng định trên một số mặt sau đây:
- Dạy dân chữ
nghĩa, hình phạt giảm nhẹ, dân chúng được an cư lạc nghiệp, hướng cho dân làm
những điều ân nghĩa
- Dũng cảm
chống lại sự xâm nhập của quân Hán - Vương Mãng và đến khi chết vẫn linh hiển
đuổi giặc bỏ chạy khiến cho “quân Vương Mãng
không dám kéo đến xâm lược nữa”.
Xét theo thời
điểm lịch sử lúc đó, có thể khẳng định đây là những hoạt động tiến bộ so với
các quan lại đương thời ( như Thái Thú Tô Định chẳng hạn) đáng được ghi nhận.
Vì vậy hai Ngài mới được dân chúng tôn thờ , một là để nhớ công ơn, hai là để trong cõi tâm linh, hai Ngài tiếp tục giúp
dân làng ta an cư lạc nghiệp.
1.3.
Chữ [công] trong
Thần tích, cùng một chữ 公,
nhưng ở phần đầu có nghĩa là “ông”
( thí dụ : Đặng công húy Vận ) nhưng trong Duệ hiệu được sắc phong thì lại có
nghĩa là tước Công. Nếu hiểu theo nghĩa là “ông” thì trong sắc phong cũng có thể
hiểu theo nghĩa: “Thiện Nguyên Công” là “ông toàn thiện” hay là “người toàn thiện”.
“Quang Lai Công” là “người mang ánh sáng tới”.
1.5.Trại
Nga My có từ thời Hán, ít nhất
cũng cách đây hơn hai ngàn năm. Vậy làng ta là làng cổ, có truyền thống lâu đời.
Chữ Nga My không biết có phải xuất xứ từ tên dãy núi Nga My nổi tiếng ở Trung
Quốc hay không. Trước đây các cụ làng ta, trong thơ ca hay nói đến “ Nga sơn, Hát thủy”, tôi còn nhớ ông Ngoại tôi làm thơ, trong đó
có câu: “Non Nga, nước Hát vững bền
dài lâu “
*Tư liệu về
núi Nga My:
Nga My sơn là ngọn núi nằm
ở tỉnh Tứ Xuyên thuộc miền tây Trung Quốc, trên khu vực quá độ của lòng chảo Tứ
Xuyên theo hướng cao nguyên Thanh Hoa - Tây Tạng. Nơi cao nhất của Nga My là
Kim Đỉnh với độ cao 3.099m so với mặt biển. Với những tín đồ Phật giáo Trung Quốc,
Nga My sơn cùng với Phổ Đà sơn (tỉnh Chiết Giang, cao 284m), Cửu Hoa sơn (An
Huy, cao 1.341m), Ngũ Đài sơn (tỉnh Sơn Tây, cao 3.058m) hợp thành bốn ngọn núi
linh thiêng nhất, được gọi là Tứ đại Phật giáo linh sơn. Nga My là ngọn núi gắn
liền với tâm linh, nơi hiện diện khoảng 26 ngôi chùa lớn nhỏ.
Đã bao đời, nơi đây được
mang mỹ danh “Nga My Sơn thiên hạ tú” (núi Nga My đẹp nhất thiên hạ) quả thật
không ngoa. Với địa thế cao chót vót, cảnh sắc bốn mùa tuyệt tác, Nga My đúng
là một thắng cảnh có sức hấp dẫn khó cưỡng với du khách. So với những ngọn "núi thiêng" tại
Trung Quốc như Ngũ Đài Sơn, Phổ Đà Sơn, Cửu Hoa Sơn, Hành Sơn, Tung Sơn, Thái
Sơn, Hằng Sơn hay Hoa Sơn, Nga My Sơn đứng vào danh sách những ngọn núi cao nhất.
Không những thế, còn là ngọn núi gắn liền với tâm linh, nơi từng xuất hiện và tồn
tại những ngôi chùa nổi tiếng, theo phái Phổ Hiền Bồ tát.
Nga My nằm ở vùng cận nhiệt
đới gió mùa. Tuy nhiên, khí hậu sẽ thay đổi theo độ cao của núi. Từ chân núi đến
độ cao khoảng hơn 1.000m là kiểu khí hậu ôn đới ấm, từ độ cao 1.500m trở lên là
khí hậu cận hàn đới. Từ độ cao 2.000m trở lên thì thời gian băng tuyết bao phủ
ước chừng khoảng năm tháng mỗi năm, kéo dài từ tháng 11 năm trước tới tháng 4
năm sau.
Nga My là ngọn núi gắn liền với tâm linh, nơi hiện diện khoảng 26 ngôi
chùa lớn nhỏ
1.6. Ngày Hội làng ta là ngày 12/11 âm lịch hàng năm; qua Thần tích, chúng
ta biết rằng, đó là ngày sinh ông Thiện ( sinh giờ Sửu, ngày 12 tháng 11 năm
Giáp Ngọ).
2.Một số điều tản mạn chưa rõ hoặc còn
phân vân.
2.1.Theo Thần tích: “Lúc rảnh việc ông (Thiện Đại Vương) lại về
hành tại Nga My, giảng giải cho dân những điều ân nghĩa, dân chúng đều bái tạ,
nhân xin lấy chỗ hành tại, khi ông sống thì làm sinh từ, khi ông mất sẽ là nơi
thờ phụng”. Như vậy làng Nga My đã thờ ngay từ khi Ngài còn sống ( sinh từ)
và đền thờ sau khi Ngài mất cũng đặt tại nơi Ngài thường nghỉ tạm ở Nga My mỗi
khi Ngài đến giúp dân. Trước đây làng ta có Miếu thờ Thần ở dưới bãi ( gọi là
Quán), cửa Miếu hướng ra sông, tôi nhớ khi còn nhỏ có thấy rước Thần từ Miếu về
Đình và từ Đình xuống Miếu. Không biết có phải Miếu đó thờ Nhị vị Đại Vương mà
Đình là nơi thờ vọng hay không. Và không biết Miếu thờ đầu tiên đó có phải là
nơi hai Ngài nghỉ lại mỗi khi về hành tại Nga My hay ở chỗ nào khác.
:
2.2.Ở
quê ta, đôi quang gọi là đôi gióng
( gióng gánh), có lẽ cũng là do kiêng tên húy của Thần ( Quang Lai công ). Vậy
không biết có kiêng tên “Vận”, “Cẩn” và “Thiện” không?
2.3. Về
nguồn gốc của Thần, tuy ở trên
tôi đã thiên về ý kiến cho rằng hai Ngài
là người Hán đã Việt hóa, nhưng về phương diện nghiên cứu, tôi vẫn còn phân
vân. Nghe họ ( Đặng và Tạ ) thì có vẻ là người Việt, hoặc là người Hán đã Việt
hóa. Nhưng chức vị quan tước và cách giáo hóa dân thì có vẻ là người Hán và công
lao của Ngài ví như Sĩ Nhiếp ( là người có công mang nho học vào Việt Nam,
cũng được phong Vương). Nếu hai Ngài chỉ làm Châu thú cấp huyện thì chắc là người
Việt. Nhưng nếu là người Việt thì khó được sự quan tâm của Hoàng đế nhà Hán đến
vây và sắc phong khó mà cao đến như vậy. Tại sao sử sách không thấy nói đến.
2.4.Về năm
sinh, năm mất, không khớp với lời kể trong Thần tích
Theo Thần tích,
Đại Vương Quang sinh năm Kỷ Dậu. Kỷ Dậu là những năm: (– 132); (-72); (-12) ;
(+49). Các năm (+49), (-12), (-72) không thể là ngày sinh của Ngài vì những năm
đó đều là thời gian Hán Chiêu Đế đã mất rồi và đã chuyển qua các đời vua khác.
Vậy Đại vương chỉ có thể sinh năm (-
132) đời Hán Vũ Đế. Nếu Ngài mất
năm Đinh Mùi, là các năm (-14), (-74), (+47); vậy chỉ có thể là năm (-14 ), đời
Hán Thành Đế, vì Ngài mất sau Đại Vương Thiện, nhưng như vậy Ngài thọ tới 118 tuổi (?)
Đại
Vương Thiện sinh năm Giáp Ngọ, chỉ có thể
là năm (- 87) ( các năm (- 147) ; (-
27); ( +34) cũng là Giáp Ngọ nhưng quá xa đời Hán Chiêu Đế). Vậy là
Đại Vương Quang hơn Đại Vương Thiện 45 tuổi. Nếu năm Đại Vương Thiện 18 tuổi cha mẹ qua đời mà viết là năm Giáp Thân thì
không hợp lý , vì Giáp Thân là các năm (-37),
(- 97); vậy chỉ có thể là năm
Nhâm Thân (-69). Theo Thần tích, Ngài hóa vào năm Bính Ngọ, khi đã 70
tuổi. Nhưng Bính Ngọ là năm ( - 15), vậy là 72 tuổi.
2.6. Đại Vương Thiện được lệnh đi dẹp loạn ở 7 quận
( trong danh sách không có Cửu Chân); nhưng khi đi thì lại đến dẹp ở Cửu Chân đầu
tiên. Có sự nhầm lẫn gì chăng.
V.
Thay lời kết cuối, tôi xin có đôi câu đối và một bài thơ biểu thị
suy nghĩ của mình như sau:
1/ Câu đối:
- Chín chữ
sắc phong, hướng về Nhị Thánh, ấy cõi tâm linh, Thượng Hạ hai Thôn, dân chúng đồng
lòng phụng sự.
- Năm trang
thần tích, gợi nhớ ngàn xưa, đó chính cội nguồn, Nga My một Trại, cha ông khởi
nghiệp từ đây.
2/ Bài thơ
như sau:
Cố hương
Cố hương bên dòng sông Đáy
Ngày xưa còn gọi Hát giang
Tên làng là tên ngọn núi
Nổi danh đẹp nhất trần gian (1)
Phải chăng tiền nhân thuở trước
Qua đây rồi chẳng muốn đi
Thế nên Thánh nhân dừng bước
Ngàn năm ở lại Nga My
Nga
My, chí người như núi
Nên gọi là Trại Nga My
Cùng dòng Hát giang dữ dội
Năm Mùi đuổi giặc thù đi (2 )
Nôn
nao nhớ mùa quả đỏ
Rừng vải năm xưa đâu rồi ?
Bãi mía múa gươm đón gió
Vẫn còn ngọt mãi trong tôi
Núi
cao tận đâu xa thẳm
Không gặp mà vẫn ngẩn ngơ
Dòng sông dập dềnh sóng vỗ
Chỉ còn như thực, như mơ
Nhớ
câu : “Nga Sơn, Hát Thủy”
Ngàn năm chuyện cũ còn đây
Bể dâu dẫu nhiều thay đổi
Trời xanh vẫn mây trắng bay
Cố
hương đường về nhiều chặng
Ba La – Thạch Bích – Bình Đà
Con đường rẽ từ Cầu Nẩy
Là đường về đến làng ta
Ngào ngạt hương thơm khói tỏa
Bốn phương lối cũ tìm về
Mái đình, chùa Trên , chùa Dưới,
Dòng sông, bãi vải - hồn quê
Chú thích:
(1)Núi Nga My được xưng tụng là “Nga My
Sơn thiên hạ tú” (núi Nga My đẹp nhất thiên hạ)
(2) Theo Thần tích, đó là năm Đinh Mùi,
tức năm (-14)
Hà
Nội, ngày 16 tháng 9 năm 2009
( Chỉnh lý lại ngày 10/02/2010)
TS. Nguyễn Đình Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét